Bảo tàng Phật giáo trong lòng Non Nước

Ngũ Hành Sơn - thắng cảnh tuyệt mỹ của thành phố Đà Nẵng không chỉ là vùng sinh thái tự nhiên mà còn mang giá trị như một Bảo tàng Phật giáo đặc biệt.

Quốc tự Tam Thai - một trong những ngôi chùa được xây dựng rất sớm tại Ngũ Hành Sơn.
Quốc tự Tam Thai - một trong những ngôi chùa được xây dựng rất sớm tại Ngũ Hành Sơn.

Danh sơn này cùng những bí ẩn đang dần được giải mã từ các văn tự, hình ảnh, ký hiệu được khắc trực tiếp trên một số vách đá, hang động (còn được gọi là “ma nhai”) đã khẳng định vị thế của một trong những trung tâm Phật giáo lớn của xứ Đàng Trong xưa.

Ngũ Hành Sơn, thắng cảnh Non Nước với những tên gọi xưa như Ngũ Chỉ Sơn (5 ngón tay Phật) hay Ngũ Uẩn Sơn (5 thành tố cấu thành thân tâm con người theo Phật giáo) đã sớm định hình là trung tâm Phật giáo lớn của Đại Việt ngay sau cuộc nam chinh năm 1471 của Vua Lê Thánh Tông. Danh thắng sở hữu quần thể di tích phức hợp với 14 ngôi cổ tự danh tiếng nằm trong lòng hang động, trong đó chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng đã được Vua Minh Mạng sắc phong Quốc tự vào năm 1825.

Từ năm 2017, Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán (Huế) đã thực hiện chuyên đề “Di sản Phật giáo Ngũ Hành Sơn”. Qua khảo sát, các nhà nghiên cứu đã phát hiện hơn 90 văn bia ma nhai trên vách các hang động Thủy Sơn, gồm: Huyền Không, Tàng Chơn, Vân Thông, Linh Nham và Âm Phủ. Nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng, Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán (Huế) cho rằng: “Tìm hiểu văn khắc Hán Nôm trên bia ma nhai, người đời sau có thể hiểu thêm nhiều về lịch sử phát triển cùng đời sống, văn hóa, tín ngưỡng của cư dân xứ Đàng Trong cách đây nhiều thế kỷ”.

Những nghiên cứu từ ma nhai đã chỉ ra: Từ nửa sau thế kỷ 15, Ngũ Hành Sơn đã thu hút các vị thiền sư trong và ngoài nước đến đây hành đạo như: Thạch Liêm Đại Sán, Hưng Liên Quả Hoằng, Đương Cơ Chân Dĩnh. Đồng thời, đến nửa đầu thế kỷ 17, nơi đây còn thu hút các tín đồ, thương nhân người Nhật Bản, người Hoa đến chiêm bái, phụng cúng tiền bạc để kiến thiết cảnh Phật. Ma nhai Ngũ Hành Sơn là kho tư liệu quý, lưu giữ thông tin về lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất.

Lịch sử kiến trúc Phật giáo tại đây được chứng minh qua văn bia chữ Hán “Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc” do nhà sư Huệ Đạo Minh khắc vào vách đá động Vân Thông từ năm 1631 sau khi sửa chữa mở mang chùa. Quá trình giao lưu, hòa nhập và tiếp biến văn hóa tại Ngũ Hành Sơn rất rõ nét. Du khách tham quan động Huyền Không, chùa Linh Ứng có thể bắt gặp những họa tiết Chăm lưu dấu trên sa thạch. Ngày nay, trên các bệ thờ nơi hang động Ngũ Hành Sơn, các vị Thần - Phật - Việt - Chăm vẫn cùng tọa lạc bên nhau, cùng được người dân khói hương chiêm bái.

Sau gần 3 giờ tham quan quần thể và nghe thuyết minh, ông Herbert Miethig, du khách đến từ nước Đức không khỏi choáng ngợp: “Tôi đã đi một số quốc gia khác cũng rất sùng Phật giáo như Trung Quốc, Ấn Độ… ở đó có nhiều ngôi chùa quy mô lớn với khung cảnh giữa núi non, nhưng hiếm thấy nơi đâu có một sự giao thoa văn hóa độc đáo như thế này. Thú thật là nhiều bức tượng trong các hang động dù đã nghe thuyết minh nhưng tôi chưa thể hiểu được tường tận, nhưng tôi cảm nhận rất rõ sự uy nghi, linh thiêng”.

Chùa Quan Âm tọa lạc ở dưới chân hòn Kim Sơn. Nơi đây từ cuối năm 2015, Bảo tàng Văn hóa Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam đã chính thức hoạt động. Bảo tàng trưng bày khoảng 700 hiện vật, có niên đại từ thế kỷ thứ 7-8 đến đầu thế kỷ 20, trong đó có khoảng 200 cổ vật có giá trị di sản văn hóa.

Hai nhóm cổ vật: Tượng bạch ngọc “Quan Thế Âm tống tử” và nhóm tượng Phật Mật Tông bằng kim loại theo phong cách Đồng Dương có khả năng có nguồn gốc từ Phật viện Đồng Dương - Quảng Nam (thế kỷ 9) của bảo tàng đang được khuyến khích thành lập hồ sơ công nhận là Bảo vật quốc gia.

Năm 2018, chùa Quan Âm chính thức an vị “Tôn tượng Ngọc Bồ Tát Quán Thế Âm” cao 4,99m, nặng 14,7 tấn làm từ ngọc nguyên khối, hiện được coi là phật ngọc lớn nhất Việt Nam. Ngoài ra, những chiếc cột đá khổng lồ được sơn khắc tranh pháp lam phỏng theo bức “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” (cuối thế kỷ 14), miêu tả Phật hoàng Trần Nhân Tông xuất sơn, thể hiện tư tưởng “Tam giáo đồng tôn” thời Trần cũng là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc mô tả lịch sử Phật giáo Việt Nam một thời hưng thịnh.

Ngũ Hành Sơn không chỉ là một thắng tích mà còn là một thực thể song hành cùng những lễ nghi Phật giáo. Vào tháng 2 âm lịch hằng năm, tại đây diễn ra lễ hội Quán Thế Âm truyền thống với nhiều nội dung nhân văn. Ngày 3/2/2021, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận “Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn” là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Thượng tọa Thích Huệ Vinh, Phó trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Văn hóa Phật giáo thành phố Đà Nẵng, trụ trì chùa Quan Âm khẳng định: “Tất cả các văn bản, thư tịch cổ, bi ký, tư liệu cũng như các di vật, di sản hiện nay đang còn lưu lại trên Ngũ Hành Sơn là cơ sở để chứng minh rằng Ngũ Hành Sơn là một trung tâm Phật giáo, quy tụ rất nhiều môn phái, các bậc cao tăng, tín đồ trong nước và quốc tế đến đây hành hương, chiêm bái. Ngũ Hành Sơn thật sự đã từng giữ vai trò quan trọng, tạo nên sự đa dạng và thúc đẩy cho Phật giáo phát triển mạnh mẽ trên vùng đất này”.

Có thể bạn quan tâm