Giá trị Di sản văn hóa phi vật thể dân ca M’nông

Dân ca M’nông bắt nguồn từ trong quá trình sản xuất nông nghiệp, hình thành cơ bản trên cơ sở lời nói vần, một hình thức đặc biệt trong ngôn ngữ của tộc người. Năm 2020, dân ca M’nông trên địa bàn tỉnh Ðắk Nông đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian.
0:00 / 0:00
0:00
Tiết mục "Ðón khách" của đồng bào dân tộc M’nông được biểu diễn tại Liên hoan Dân ca các dân tộc tỉnh Ðắk Nông.
Tiết mục "Ðón khách" của đồng bào dân tộc M’nông được biểu diễn tại Liên hoan Dân ca các dân tộc tỉnh Ðắk Nông.

Dân ca của người M’nông là hình thức diễn xướng dân gian được người M’nông sáng tác, trình diễn, ra đời trong quá trình lao động sản xuất, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được cộng đồng coi là tài sản chung. Trải qua quá trình giao lưu văn hóa sâu rộng, dân ca M’nông đã phát triển, phong phú về thể loại, đa dạng về thang âm và giữ được những nét đặc trưng, với phương thức lưu truyền, phổ biến của dân ca vẫn là hình thức truyền miệng trong cộng đồng.

Dân ca M’nông là thể loại giàu chất trữ tình, những câu hát có hình ảnh, nhịp điệu, có vần điệu kết nối đan xen được tạo nên bởi cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Chủ đề của lời hát còn được dùng trong các nghi lễ và những điệu hát khấn thần. Chính nhờ hình thức này mà dân tộc M’nông đã dựng nên những pho sử thi rất hoành tráng, có dung lượng dài đến hàng nghìn câu.

Dân ca M’nông được thể hiện tương đối tự do, thoải mái, không bị câu thức bởi lễ nghi, phép tắc diễn xướng. Người nghệ nhân bằng giọng hát của mình, đặt chỗ lấy hơi, chọn nơi thêm luyến láy, từ phụ, hư từ làm cho lời hát sinh động. Giọng, điệu, lời hát, cách sử dụng ngữ điệu, ngữ khí, sắc thái là những phương tiện cơ bản của diễn xướng mà nghệ nhân hát dân ca cần có để có thể diễn xướng được những bài dân ca M’nông.

Dân ca M’nông có hai hình thức, gồm độc diễn (hát một người) và hát đối đáp, gồm nhiều thể loại như hát ru con, hát khấn thần trong các nghi lễ, hát đố, hát đồng dao, hát kể sử thi, hát giao duyên… Hát ru con có cung bậc âm thanh trầm, đều đặn, sâu lắng của người bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em… khiến em bé dễ đi vào giấc ngủ. Ngay cả khi địu con trên đường, lên nương hay đang lao động sản xuất, phụ nữ M’nông cũng thường hát dân ca để ru con. Hầu hết những bài hát ru có nội dung nói về nhận thức, ước mơ, hoài bão của các bà, các mẹ, các chị về cháu, con, em mình.

Hát kể là hình thức tự sự với nội dung kể lại cuộc sống, qua đó bộc lộ tâm tư, tình cảm của con người. Hát kể thường được đồng bào M’nông sử dụng để trao đổi chuyện trò, tâm sự với nhau trong dịp lễ hội hay lâu ngày mới gặp nhau. Ðặc biệt, trong những lúc rảnh rỗi, những đêm giá lạnh quây quần bên bếp lửa, hay trong các lễ hội, bà con hát kể sử thi. Nội dung hát kể vừa hiện thực vừa kỳ ảo, được thể hiện bằng ngôn ngữ có vần điệu, nhịp nhàng, nhiều hình ảnh, hình tượng và có tính xúc cảm cao.

Không gian diễn xướng của dân ca M’nông rất rộng, bao trùm toàn bộ môi trường sinh sống của người M’nông. Sau các nghi lễ trang trọng, bà con quây quần bên ché rượu cần, thưởng thức những đồ ăn, thức uống mang linh khí của các thần bảo mệnh, rồi thả hồn vào những bài hát dân ca, ca ngợi quê hương, bon làng.

Dân ca M’nông đã và đang góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, khích lệ quá trình lao động và sinh hoạt cộng đồng. Dân ca M’nông bảo vệ và trao truyền các tri thức về tự nhiên, xã hội và con người; góp phần cố kết cộng đồng, giáo dục các thế hệ về ý thức cội nguồn dân tộc, bản sắc tộc người, đạo đức trong gia đình và trong cộng đồng, tình yêu đôi lứa, trao truyền kinh nghiệm lao động sản xuất để truyền dạy cho thế hệ sau…