Hiệu quả từ chính sách khoán bảo vệ rừng

Cùng với tăng cường quản lý, bảo vệ, Ban quản lý Vườn quốc gia Tà Đùng (Vườn quốc gia), tỉnh Lâm Đồng đã chủ động giao khoán hàng nghìn héc-ta rừng tự nhiên cho các hộ, nhóm hộ đồng bào dân tộc thiểu số vùng đệm quản lý, bảo vệ.

Các hộ nhận khoán và lực lượng chuyên trách tuần tra, bảo vệ rừng.
Các hộ nhận khoán và lực lượng chuyên trách tuần tra, bảo vệ rừng.

Nhờ triển khai hiệu quả, gần 15 năm qua, trên lâm phần Vườn quốc gia không xảy ra phá rừng, lấn chiếm đất rừng; đa dạng sinh học được bảo vệ, đời sống người dân nhận khoán từng bước được cải thiện.

Vườn quốc gia Tà Đùng có diện tích tự nhiên khoảng 21 nghìn héc-ta, là một trong những khu vực có hệ sinh thái rừng đặc trưng và đa dạng sinh học bậc nhất Việt Nam. Tuy nhiên, do diện tích rừng lớn, địa bàn rộng, hiểm trở, chia cắt mạnh…, trong khi nguồn nhân lực quản lý, bảo vệ còn rất thiếu cho nên việc tuần tra, bảo vệ thường xuyên phải đối mặt nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ.

Để khắc phục, từ năm 2011, Ban quản lý Vườn quốc gia đã chủ động giao khoán hơn 3.000 ha rừng tự nhiên cho 148 hộ người đồng bào dân tộc thiểu số vùng đệm quản lý, bảo vệ. Việc nhận khoán đã từng bước nâng cao đời sống, làm thay đổi nhận thức và hành động của người dân trong công tác quản lý, bảo vệ rừng, nhờ đó hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học Vườn quốc gia cũng được bảo vệ tốt hơn.

Với hơn 2 ha cà-phê, gia đình ông K’Măng, xã Đam Rông 1, tỉnh Lâm Đồng vẫn luôn đối diện với khó khăn. Do thiếu vốn đầu tư cho nên vườn cây kém phát triển, năng suất thấp, mỗi năm thu khoảng 200 triệu đồng. Từ khi nhận khoán bảo vệ rừng, gia đình ông có thêm thu nhập cố định mỗi năm khoảng 16 triệu đồng. Số tiền này một phần dùng trang trải cuộc sống hằng ngày, còn phần lớn ông để dành đầu tư mua phân bón chăm sóc vườn cà-phê.

Ông K’Măng cho biết, tuy số tiền không nhiều nhưng đó là khoản thu cố định có thể biết trước, giúp gia đình chủ động tính toán trong chi tiêu và phát triển sản xuất. Nhờ được bổ sung phân bón kịp thời cho nên vườn cà-phê phát triển tốt, đạt năng suất cao, thu nhập tăng hơn so với trước khoảng 100 triệu đồng/năm và cuộc sống của gia đình ông cũng từng bước thoát khỏi khó khăn, trở nên khấm khá hơn.

Tại khu vực Trạm 2, Vườn quốc gia Tà Đùng, ông K’Sriu cùng 11 hộ dân khác nhận khoán quản lý, bảo vệ gần 200 ha rừng tự nhiên, bình quân mỗi hộ nhận được 15,5 triệu đồng/năm. Theo ông K’Sriu, số tiền tuy không lớn nhưng đã giúp các hộ nhận khoán cải thiện cuộc sống, nhất là đối với những hộ khó khăn, không có điều kiện phát triển sản xuất. Điều quan trọng hơn là từ khi nhận khoán, ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường của người dân được nâng cao.

Ngoài việc trở thành thành viên quản lý, bảo vệ rừng, các hộ nhận khoán còn trở thành hạt nhân trong công tác tuyên truyền để người dân vùng đệm hiểu về ý nghĩa công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học vườn quốc gia. Nhờ đó, nhiều năm nay người dân không tác động vào rừng, hệ sinh thái vườn quốc gia được giữ gìn tốt hơn.

Theo Ban quản lý Vườn quốc gia Tà Đùng, lực lượng nhận khoán bảo vệ rừng đóng vai trò rất quan trọng trong công tác bảo vệ, phát triển và phòng cháy, chữa cháy rừng. Những năm qua, diện tích rừng giao khoán được các hộ dân, nhóm hộ quản lý, bảo vệ tương đối tốt về số lượng và chất lượng; hạn chế đến mức thấp nhất các vụ xâm hại tài nguyên rừng; ngăn chặn kịp thời việc lấn chiếm, khai thác lâm sản, săn bắt động vật rừng trái phép.

Chỉ tính trong 5 năm gần đây, đơn vị đã phối hợp lực lượng nhận khoán tuần tra rừng hơn 4.822 lần, với 21.806 lượt người tham gia; trong đó, số vụ vi phạm bị xử phạt hành chính là 13 vụ, phát hiện và tháo gỡ 1.485 bẫy thú…, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học, diện tích rừng hiện có, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra.

Giám đốc Vườn quốc gia Khương Thanh Long cho biết, từ khi thực hiện chính sách giao khoán rừng cho đồng bào vùng đệm quản lý, bảo vệ thì không còn xảy ra tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, đa dạng sinh học Vườn quốc gia được bảo vệ khá tốt. Đến nay, đơn vị đã giao khoán 3.066 ha rừng tự nhiên cho 14 tổ nhận khoán, với mức thu nhập bình quân từ 12,5 đến 16,9 triệu đồng/hộ/năm. Số tiền nhận được từ công tác quản lý, bảo vệ rừng tuy không nhiều nhưng đã giúp cho cuộc sống của người dân vùng đệm từng bước được cải thiện, người dân ngày càng gắn bó với rừng hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý, bảo vệ rừng hiện nay cũng đang đối diện nhiều thách thức do diện tích quản lý rộng, địa hình phức tạp, đặc biệt là việc ngăn chặn người dân khu vực giáp ranh lấn chiếm đất rừng.

Đa số người dân vùng đệm cuộc sống còn khó khăn, trình độ thấp cho nên nhận thức hạn chế, gây trở ngại cho việc tuyên truyền, phổ biến về công tác quản lý, bảo vệ rừng. Việc di dân tự do vào các xã quanh vùng đệm ngày càng nhiều tạo ra áp lực rất lớn lên rừng và tài nguyên rừng. Từ đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản, săn bắt động vật rừng trái phép…

Có thể bạn quan tâm