Tháo gỡ vướng mắc, tạo đà giảm nghèo bền vững

Trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã trở thành một trong những động lực quan trọng và đến nay đạt nhiều kết quả tích cực. Song, bên cạnh những thành tựu, hành trình giảm nghèo vẫn đối diện không ít khó khăn, thách thức.

Mô hình sinh kế giúp nhiều người dân miền núi phía tây Quảng Ngãi nâng cao thu nhập.
Mô hình sinh kế giúp nhiều người dân miền núi phía tây Quảng Ngãi nâng cao thu nhập.

Một số hạn chế, bất cập

Sau gần 5 năm triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, toàn quốc đã đạt những thành tựu đáng ghi nhận. Theo Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 và 5 năm 2021-2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2026 của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,4% năm 2021 xuống còn 1,3% năm 2025, vượt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn đạt 35,2%, vượt mục tiêu 30%.

Nhiều địa phương có bước chuyển rõ nét, khi tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm qua từng năm và diện mạo các xã vùng sâu, vùng xa ngày càng khởi sắc. Các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương xác định nhiệm vụ giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt và lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Các văn bản triển khai được ban hành kịp thời, đầy đủ, quyết tâm phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu giảm nghèo. Nguồn vốn huy động giảm nghèo được đa dạng hóa phân bổ và sử dụng các nguồn lực đúng mục tiêu, đúng quy định; tăng cường phân cấp, phân quyền đi đôi với cơ chế giải trình minh bạch; công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chương trình, dự án; năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cơ sở được nâng cao.

Nhờ đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, nhiều hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm dần tư tưởng ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước, tổ chức sản xuất hiệu quả, từng bước ổn định đời sống, tự lực vươn lên thoát nghèo bền vững. Phong trào thi đua “Vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau” lan tỏa sâu rộng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của người nghèo.

Tuy nhiên, hành trình giảm nghèo bền vững vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là các tỉnh miền núi. Quá trình triển khai cũng bộc lộ một số bất cập cần kịp thời tháo gỡ. Số lượng văn bản quy định, hướng dẫn liên quan đến việc tổ chức thực hiện Chương trình nhiều và một số văn bản phải thay đổi bổ sung, có nội dung chưa thống nhất, chưa rõ ràng, chậm ban hành hoặc ban hành nhưng chưa đồng bộ dẫn tới các ngành, địa phương lúng túng trong triển khai thực hiện, khó khăn trong nghiên cứu áp dụng thực hiện việc phân bổ chi tiết đến từng nội dung, nhiệm vụ, tiểu dự án. Quá trình thực hiện một số chính sách còn có nhiều cách hiểu khác nhau, chưa có văn bản hướng dẫn đầy đủ hơn trong việc áp dụng cơ chế chính sách.

Công tác giảm nghèo bền vững tại Bắc Ninh là điểm sáng trên cả nước, dự kiến đến hết năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh chỉ còn khoảng 0,56%. Năm 2022 là năm đầu thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, nội dung, chính sách, hoạt động của Chương trình có nhiều điểm mới, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Trung ương nhiều, nhiều nội dung lại giao cho địa phương phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ảnh hưởng đến việc xây dựng và ban hành các cơ chế thực hiện Chương trình do Trung ương phấn cấp cho tỉnh.

gen-h-tuyen-quang.jpg
Hộ dân ở Tuyên Quang phát triển kinh tế từ mô hình chăn nuôi.

Tỷ lệ giải ngân Tiểu dự án 1, Dự án 4 “Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn” của một số địa phương còn thấp, một trong những nguyên nhân là Trung ương chưa quy định rõ tiêu chí xác định “người lao động có thu nhập thấp”. Chưa kể, lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo chủ yếu là đối tượng bảo trợ xã hội, ít có khả năng lao động, ít có nhu cầu đăng ký học nghề nên khó tổ chức các lớp dạy nghề; cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, năng lực của các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên ở một số huyện (cũ) chưa đáp ứng được nhu cầu dạy nghề. Tại Quảng Ngãi, nhiều người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và người có thu nhập thấp không muốn tham gia học nghề nên việc huy động gặp nhiều khó khăn, không thể đặt hàng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đào tạo nghề.

Hiệu quả triển khai Tiểu dự án 2, Dự án 4 “Hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” tại Quảng Trị, Thanh Hóa chưa cao phần lớn do người lao động không cung cấp được hóa đơn, chứng từ đối với các khoản thu học tiếng, giáo dục định hướng, chi phí xuất cảnh dùng để thanh toán với cơ quan Nhà nước; chưa có hướng dẫn ban hành giá của dịch vụ đào tạo ngoại ngữ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước, gây khó khăn trong việc xác định đơn giá để đặt hàng đào tạo ngoại ngữ với các đơn vị dịch vụ.

Kiến nghị từ thực tế

Để công tác giảm nghèo trong giai đoạn tới tiếp tục đạt được kết quả khả quan, mỗi địa phương cần chủ động rà soát, phân tích toàn diện khó khăn, hạn chế; xác định rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến tiến độ giảm nghèo. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp, kiến nghị cụ thể, sát thực tiễn, phù hợp đặc thù vùng miền, từ cơ chế chính sách, nguồn lực đầu tư đến tổ chức thực hiện ở cơ sở. Việc làm này không chỉ giúp định hướng đúng đắn cho hành trình giảm nghèo sắp tới, mà còn góp phần tạo nền tảng bền vững hơn để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.

Lai Châu kiến nghị Trung ương hoàn thiện cơ chế chính sách trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng tăng cường phân cấp cho địa phương, giảm tối đa các văn bản hướng dẫn để tránh chồng chéo trong quá trình triển khai thực hiện. Văn bản hướng dẫn ban hành đầy đủ, đồng bộ trước khi giao kế hoạch vốn (giai đoạn 2021-2025 Trung ương ban hành hơn 143 văn bản, về địa phương phải cụ thể hóa 174 văn bản); đồng thời nghiên cứu rút gọn đầu mối ban hành văn bản hướng dẫn, thống nhất một đầu mối chủ trì thay vì chia nhỏ từng bộ, ngành phụ trách từng nội dung thành phần, gây khó khăn trong triển khai thực hiện tại cơ sở. Vốn sự nghiệp cần giao theo dự toán 5 năm và các nguồn vốn Trung ương chỉ giao số tổng của từng Chương trình, không giao chi tiết từng dự án thành phần, lĩnh vực chi.

Hướng tới giai đoạn mới, Điện Biên đề xuất những giải pháp cụ thể tháo gỡ vướng mắc như không phân cấp cho cấp tỉnh quy định về mẫu hồ sơ, trình tự, thủ tục, tiêu chí lựa chọn dự án, kế hoạch, phương án trong thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất. Bởi, việc quy định thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật của cấp tỉnh chỉ được thực hiện khi được Luật cho phép hoặc quy định biện pháp có tính chất đặc thù của địa phương. Mặt khác, nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia là nguồn ngân sách Trung ương, do đó nếu để cấp tỉnh quy định thủ tục hành chính đối với việc sử dụng nguồn vốn này là không hợp lý, tốn nhiều thời gian xây dựng và triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, cần quy định rõ trình tự thực hiện, nội dung chi, mức chi cụ thể của dự án hỗ trợ phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị bởi các quy định hiện tại của dự án này rất phức tạp, không có mốc thời gian theo các thủ tục hành chính để thực hiện.

Tỉnh Quảng Trị đề nghị gộp Dự án 2 “đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo” và Tiểu dự án 1, Dự án 3 “hỗ trợ phát triển sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp” thành dự án Hỗ trợ phát triển sản xuất. Cả hai nội dung đều tập trung vào hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo phát triển sinh kế, nâng cao thu nhập, thông qua mô hình sản xuất nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp quy mô nhỏ. Việc tách riêng dễ gây ra chồng chéo, trùng lặp khi triển khai, khi hợp nhất giúp đơn giản hóa triển khai thực hiện tại các địa phương.

Tỉnh cũng đề nghị Chính phủ sớm ban hành Khung chương trình tổng thể giai đoạn 2026 - 2030, bảo đảm thống nhất các dự án thành phần, nội dung hoạt động và đối tượng thụ hưởng, hạn chế tối đa việc điều chỉnh giữa kỳ gây ảnh hưởng tiến độ thực hiện ở cơ sở. Các bộ, ngành chủ trì các lĩnh vực khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn đồng bộ, chi tiết, phù hợp thực tiễn, giúp địa phương chủ động triển khai.

gen-h-lang-son.jpg
Cán bộ chiến sĩ biên phòng xây nhà giúp dân ở Lạng Sơn.

Theo kiến nghị của một số địa phương, nghiên cứu xây dựng Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2030 theo hướng tích hợp chặt chẽ với Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, khắc phục tình trạng phân tán nguồn lực và chồng chéo nội dung giữa các chương trình. Tích hợp các nội dung có liên quan chặt chẽ giữa hai chương trình như: đầu tư hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ sinh kế - việc làm - nhà ở, truyền thông chính sách, giáo dục - y tế - dịch vụ xã hội…để tạo chuyển biến toàn diện về điều kiện sống và cơ hội phát triển của người dân, đặc biệt tại vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy lồng ghép nhưng phân định rõ nội dung thực hiện độc lập, xác định rõ đầu mối quản lý từng hợp phần nhằm tránh trùng lặp đối tượng, nâng cao trách nhiệm giải trình và hiệu quả điều phối giữa các cấp, các ngành.

Đối chiếu với các quy định, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên không thuộc đối tượng thụ hưởng các nội dung về giáo dục nghề nghiệp của 3 Chương trình Mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025, nên việc triển khai thực hiện dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững gặp nhiều khó khăn, nguồn lực lớn nhưng giới hạn về đối tượng, nội dung thực hiện. Do đó, tỉnh Lạng Sơn đề nghị mở rộng phạm vi, đối tượng thụ hưởng vốn đầu tư bao gồm các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên; sửa đổi, bổ sung quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng theo hướng: mỗi người chỉ được hỗ trợ đào tạo một lần trong một chính sách, những người đã được hỗ trợ đào tạo một lần từ một chính sách thì không được tiếp tục hỗ trợ đào tạo theo chính sách đó.

gen-h-dien-bien.jpg
Thu hoạch cà phê tại Điện Biên

Hành trình giảm nghèo bền vững vẫn còn cam go, đòi hỏi bền bỉ, sáng tạo và quyết liệt. Từ thực tiễn triển khai tại các tỉnh, thành phố cho thấy, công tác giảm nghèo bền vững cần sự kiên trì, đầu tư dài hạn và có chính sách phù hợp đặc thù từng vùng, từng địa phương và cần sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của cộng đồng, doanh nghiệp và quyết tâm vươn lên của người dân. Việc Trung ương sớm ban hành chuẩn nghèo mới và hướng dẫn tổ chức rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn giai đoạn 2026-2030 sẽ giúp các địa phương chủ động rà soát, xây dựng kế hoạch, chính sách giảm nghèo sát, đúng tình hình thực tế.

Có thể bạn quan tâm