Theo Nghệ nhân Ưu tú Y Triêng (làng Cheo Leo, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum), lịch sử ra đời của nghề dệt thủ công truyền thống không còn ai biết có từ bao giờ và ai là người đầu tiên biết dệt, chỉ biết rằng đã có từ thời ông bà tổ tiên, được truyền lại từ đời này sang đời khác và duy trì cho đến ngày nay.
Công việc dệt vải do người phụ nữ đảm nhiệm, thường dệt trong những tháng nông nhàn, khi việc nương rẫy đã xong hoặc tận dụng thời gian về đêm. Quy trình dệt vải của người Ba Na bao gồm từ công đoạn trồng bông, khai thác bông, sơ chế bông thành sợi chỉ, nhuộm sợi chỉ và dệt thành vải thổ cẩm.
Vào khoảng tháng 3 đến tháng 4 dương lịch, khi cơn mưa đầu mùa bắt đầu thấm đất, người Ba Na bắt đầu trồng hạt bông trên đất rẫy cũ (thường là rẫy vụ thứ hai) thì cây bông mới sinh trưởng và phát triển tốt, bông mới nở đều và không bị sâu bệnh. Đến khoảng tháng 1, tháng 2 dương lịch của năm kế tiếp, bắt đầu thu hoạch bông.
Để bảo đảm chất lượng, bông thường thu hoạch khi thời tiết nắng ráo, quả bông đã đạt độ chín, bông nở ra làm lộ thiên phần bông trắng. Quả bông được thu hoạch thành nhiều đợt, sau khi thu hoạch, quả bông được phơi khô sao cho bông nở đều, sau đó loại bỏ vỏ và các tạp chất dính trên bông.
Các dụng cụ liên quan việc dệt vải thường do người đàn ông chế tác để cho người vợ dệt vải, nếu người nào không làm được dụng cụ, hoặc dụng cụ không đủ thì họ sẽ đi mượn của hàng xóm.
Các dụng cụ được sử dụng trong quá trình dệt vải thổ cẩm rất thô sơ, giản đơn; nguyên vật liệu chủ yếu là tre, nứa, lồ ô, gỗ, lông nhím, sáp ong...
Đặc biệt, các bộ phận trong bộ khung dệt đều tách rời, mỗi bộ phận có một chức năng riêng biệt gồm: cán bông, bật bông, xa kéo sợi, dàn sợi, cuộn sợi, giăng sợi, bộ khung cửi, thanh đạp chân, lông nhím và sáp ong.
Để chuẩn bị cho việc dệt vải, bông sau khi thu hoạch, phơi khô, loại bỏ hết tạp chất, tiếp tục lấy kén bông để tách bông ra khỏi hạt.
Sau khi tách bông khỏi hạt, bông tiếp tục được phơi khô để giữ được mầu trắng vốn có. Tiếp đến, bông được làm cho tơi xốp, mịn màng hơn, thuận lợi khi xe thành sợi và cuộn vào thoi sợi.
Sợi sau khi xe, được cuộn tròn lại như quả bóng để thuận tiện trong quá trình nhuộm mầu cho sợi. Trước khi đưa vào khung dệt để dệt vải thổ cẩm, người Ba Na giăng sợi trên khung giăng sợi theo số lượng chỉ nhất định, tương đương với khổ vải.
Sau khi giăng sợi xong, đưa thảm sợi vào khung dệt để dệt vải thổ cẩm.
Khi đã chuẩn bị đầy đủ sợi, người phụ nữ bắt đầu giăng sợi lên dụng cụ giăng sợi, đây là công việc tương đối đơn giản nhưng mất nhiều thời gian, đòi hỏi sự cần cù và sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ. Với người Ba Na, kỹ thuật dệt vải mang đặc điểm thủ công rõ rệt, mà họ thường gọi chung cho cả đan lẫn dệt là tanh.
Việc học cách dệt của người phụ nữ cũng trải qua các công đoạn từ dễ đến khó. Khi mới bắt đầu học dệt, người học sẽ dệt một khổ vải trơn, sau khi thành thạo, họ bắt đầu học dệt những đường hoa văn cơ bản trên khổ vải, sau khi thành thạo các bước nêu trên, người học sẽ bắt tay vào học dệt những hoa văn phức tạp và cách sáng tạo hoa văn theo ý muốn của mình.
Sản phẩm của nghề dệt thủ công truyền thống dùng làm trang phục mặc hằng ngày, trong các ngày hội; dùng làm tấm đắp trong những mùa giá rét; là tấm địu ru ngủ con thơ trên lưng người mẹ; dùng làm của hồi môn khi thiếu nữ Ba Na đi lấy chồng và hiện nay, còn sử dụng làm khăn trải bàn, túi sách, ví đựng, trang trí trên giày dép… theo nhu cầu của khách hàng.
Dệt vải thủ công truyền thống có vị trí rất quan trọng trong đời sống hằng ngày của người Ba Na. Đây được xem là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá phẩm hạnh, sự khéo léo, cần mẫn của người phụ nữ, là tiêu chí khẳng định vẻ đẹp của nữ giới theo quan niệm của người Ba Na.
Chính vì vậy, dệt vải thổ cẩm truyền thống được người Ba Na lưu truyền qua các thế hệ cho đến ngày nay và nữ giới từ 9-16 tuổi đã có thể thành thạo trong việc dệt vải thổ cẩm truyền thống, để khi lấy chồng đã có đủ của hồi môn cho nhà chồng và bảo đảm nhu cầu mặc cho gia đình tương lai.
Vừa qua, nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Ba Na đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là động lực lớn để đồng bào Ba Na nỗ lực hơn trong công tác bảo tồn, gìn giữ, phát triển nghề dệt, nâng tầm giá trị văn hóa của dân tộc.