Thể loại trường ca và bài thơ "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên"

Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, trường ca phát triển rầm rộ, nhất là giai đoạn sau chiến tranh chống Mỹ, cứu nước: Nước non ngàn dặm (1975) của Tố Hữu, Bài ca chim Chơ rao (1965) của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa Điềm, Sức bền của đất (1975-1976), Đường tới thành phố (1995) của Hữu Thỉnh, Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên và nhiều trường ca của nhiều nhà thơ khác.

Dù tài năng ở mỗi nhà thơ khác nhau, thi pháp sáng tạo không giống nhau, ý niệm về thể loại trường ca chưa hoàn toàn gặp nhau, song tất cả các trường ca đều có những đặc điểm chung sau:

- Đề tài và chủ đề nằm ở trung tâm của những biến cố lịch sử: Tổ quốc và dân tộc, đất nước và quê hương, những hành động anh hùng và con người anh hùng.

- Tinh thần thời đại, những biến thiên của lịch sử dân tộc được "cá thể hóa" thông qua sự xao động của con tim nhà thơ, mở ra "cánh cửa tâm lý" của sự kiện.

- Phương thức miêu tả thường hoành tráng, được khái quát hóa, tính lạ, yếu tố bất ngờ, những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, v.v. là những thành tố tạo nên tổng thể thi pháp của trường ca.

- Nhà thơ viết trường ca không giáo huấn lộ liễu, nhưng hiệu quả của hình tượng, biểu tượng ngôn ngữ là những ký hiệu lấp lánh có sức lay động tình cảm, có ý nghĩa giáo dục thâm trầm, tự nhiên.

Đọc Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu, chúng ta thấy nhiều tố chất nghệ thuật trường ca, mặc dầu trong nhiều lần tái bản chưa bao giờ nhà thơ coi tác phẩm của mình là trường ca.

Các chiến sĩ Điện Biên, vị tướng tổng tư lệnh chiến dịch đã được nhà thơ khái quát hóa để trở thành dân tộc anh hùng từ trong cái đêm 7-5-1954; cái đêm "lịch sử Điện Biên sáng rực" trở thành mốc son lịch sử chói lọi của đất nước được gắn nhiều huân chương trên ngực.

Bài thơ cũng mang tính chất hoành tráng nhờ thi pháp tạo ấn tượng với các sự kiện của chiều dài thời gian lịch sử chiến đấu và chiến thắng (Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ); chiều rộng không gian của đất nước chiều sâu lịch sử với truyền thống toàn dân đánh giặc, khi "tre đã thành chông, sông là sông lửa", với truyền thống vừa đánh vừa đàm của một dân tộc muốn sống trong thái bình và thịnh vượng, một giá trị của chiến tranh tự vệ, vốn kế thừa tư tưởng hòa hiếu của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v.

Khắc họa bức tranh hoành tráng, Tố Hữu không quên biện pháp "cá thể hóa". Chỉ vài nét phác thảo, người đọc thấy được hình tượng Bác Hồ ở tầm cao và chiều sâu; tầm cao tư tưởng chiến tranh yêu nước của vị tổng tư lệnh tối cao và chiều sâu nhân ái của người cha lực lượng vũ trang nhân dân, gần như lúc nào cũng có mặt, sát cạnh bên cạnh các chiến sĩ gối đất nằm sương, các đoàn dân công ngày đêm tải đạn, thồ hàng ra tiền tuyến:

Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò, quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi Bác vẫn nhìn theo từng ngày...

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên có thể xếp vào thể loại trường ca. Ngoài những hình tượng vừa hiện thực vừa lãng mạn của các chiến sĩ vệ quốc, còn có những biểu tượng ngôn ngữ hào hùng:

Đạn ta rào lưới sắt;
Đai thép ta thắt chặt;
Chiến sĩ anh hùng, đầu nung lửa sắt. v.v.

để nói lên sức mạnh sấm sét giáng xuống đầu quân xâm lược.

Nhà thơ có lúc bùi ngùi, xót xa, xao động trước những gương hy sinh của đồng bào và chiến sĩ Điện Biên để cho mai sau đồng ruộng xanh tươi, cho mùa hoa ban nở trắng, cho vườn cam vàng ở Tây Bắc và ở khắp  đất nước.

Viết về trận đại thắng Điện Biên Phủ và các chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu không có dịp may ra trận với những đoàn quân "xương đồng da sắt", những đoàn dân công "chị gánh, anh thồ". Đó là một sự thật. Nhưng bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên , là một tác phẩm thành công trong thi ca Việt Nam, bởi vì ở Tố Hữu có những tố chất sáng tạo đặc biệt sau:

- Nhà thơ là người đồng thời với các nhân vật lịch sử, cùng sống, chiến đấu và sinh hoạt với họ trong những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, được thông tin chính xác và kịp thời những diễn biến, những sự kiện lịch sử trên chiến trường và cả trên bàn đàm phán Hội nghị ngoại giao.

- Cảm hứng chủ đạo về đề tài đất nước anh hùng và những con người Việt Nam anh hùng đã được nhà thơ nuôi dưỡng nhiều năm, có thể từ các bài thơ trong tập Từ ấy, đặc biệt là trong Sáng tháng năm (1951). Đến khi được tin đại thắng Điện Biên Phủ, thì đấy là cơ hội, là tia chớp sáng tạo giục giã nội tâm, dấy lên ngọn lửa bên trong cảm hứng phản xạ của nhà thơ lớn. Thế là những vần thơ có tiết tấu dồn dập, có tính chất thông báo mở đầu bài thơ:

Tin về nửa đêm
Hỏa tốc, hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng...

Tiếp đến là những đoạn thơ miêu tả hào hùng, đượm chất sử thi đại quân ta và cảnh đầu hàng nhục nhã, thê lương của quân viễn chinh Pháp. Không có cảm hứng chủ đạo định hướng cho lý tưởng yêu nước, lý tưởng thẩm mỹ, thiếu đi cảm hứng phản xạ thôi thúc nồng độ sáng tạo, Tố Hữu không thể có bài thơ hay, kịp thời và đi cùng năm tháng.

- Thành công của Hoan hô chiến sĩ Điện Biên còn là nhờ sức tưởng tượng phong phú trong quá trình sáng tác của nhà thơ. Lenin hơn một lần nói rằng, sức tưởng tượng là một phẩm chất đặc biệt có giá trị. Nó cần cho nhà thơ, nhà toán học và cả cán bộ quản lý. Chúng ta không sợ sức tưởng tượng, tính lãng mạn tích cực trong sáng tạo, bởi vì ở đâu mà lý trí, trí tuệ chưa với tới, thì ở đó sức tưởng tượng giúp chúng ta tiếp tục lao động trí tuệ trên cơ sở thực tiễn được kiểm nghiệm, được thông tin chính xác. Tôi nghĩ, Tố Hữu đã tâm niệm như vậy khi viết Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.

Có thể bạn quan tâm