Theo Quy hoạch Điện VIII, tổng công suất nguồn điện gió trên bờ tăng từ 16.000 MW (khoảng 11%) vào năm 2030 lên 56.000 MW (14,4%) vào năm 2045, điện gió ngoài khơi tăng từ 7.000 MW (4,8%) vào năm 2030 lên 64.500 MW (16,6%) vào năm 2045,... Tỷ trọng điện năng của các nguồn năng lượng tái tạo (tính cả thủy điện) trong tổng điện năng sản xuất đạt 33,4% năm 2030 và 54,3% năm 2045, giúp tăng tính chủ động trong việc cung cấp điện, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu.
Xu thế tất yếu
Phó Cục trưởng Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) Bùi Quốc Hùng cho biết, tính đến cuối năm 2022, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt khoảng 79.350 MW, trong đó tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) là 20.165 MW, chiếm tỷ trọng 25,4%. Việc phát triển nhanh các nguồn điện năng lượng tái tạo đã bổ sung công suất và sản lượng cho hệ thống điện quốc gia, giúp khai thác tiềm năng, lợi thế của Việt Nam cũng như làm giảm phát thải khí nhà kính, huy động được vốn đầu tư xã hội, giảm lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu như than, dầu, khí có nhiều biến động.
Chương trình nguồn điện cũng tập trung đẩy mạnh các nguồn năng lượng tái tạo so với trước đây, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện ước đạt khoảng 121.757-145.989 MW, trong đó: thủy điện 27.353-28.946 MW (tỷ lệ 19,8-22,5%); nhiệt điện than 30.127-36.327 MW (20,6-29,8%); nhiệt điện khí trong nước và LNG (khí tự nhiên hóa lỏng) 30.330-39.430 MW (24,9-27%); năng lượng tái tạo ngoài thủy điện 21.871-39.486 MW (18-27%); nhập khẩu điện 4.076-5.000 MW (3,3-3,4%).
Bên cạnh những thuận lợi, đầu tư các dự án năng lượng tái tạo hiện đối diện thách thức khi nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất và sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn lâu do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống.
Bên cạnh những thuận lợi, đầu tư các dự án năng lượng tái tạo hiện đối diện thách thức khi nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất và sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn lâu do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống.
Việt Nam chưa có những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện mặt trời, điện gió cũng như năng lực và trình độ công nghệ trong nước còn hạn chế, thiếu kết cấu hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ sửa chữa, bảo dưỡng, thay thế thiết bị.
Việc phát triển điện năng lượng tái tạo thời gian qua cũng bộc lộ một số bất cập trong công tác quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng và khai thác các dự án điện gió, điện mặt trời; phát triển chưa đồng bộ với hệ thống truyền tải dẫn đến nghẽn mạch phải giảm phát,...
Trong những năm gần đây, nhu cầu LNG trên thế giới tăng đáng kể, theo thống kê, nhu cầu LNG trên thế giới tăng với nhịp độ bình quân 6,3%/năm, công suất LNG trên thế giới tăng từ 340 triệu tấn/năm (năm 2017) lên 453 triệu tấn/năm (năm 2022).
Xu hướng chuyển dịch sang nhiệt điện khí LNG trong bối cảnh Việt Nam vừa có các cam kết rất mạnh mẽ tại Hội nghị COP26 là tất yếu và không thể đảo ngược. Phát triển mạnh mẽ nhiệt điện khí LNG trong tương lai chắc chắn sẽ giúp ngành điện phát triển xanh hơn và hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỷ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay.
Hoàn thiện cơ chế để thu hút dự án năng lượng tái tạo
Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam (VCEA) Mai Duy Thiện khẳng định: Việc phát triển xanh, chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải là xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược mà Việt Nam đã cam kết, đồng thời tạo cơ hội để phát triển, tái cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng xanh, sạch và bền vững. Khoảng 4-5 năm trở lại đây, đầu tư cho năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) ở nước ta phát triển vượt bậc, tính đến thời điểm hiện tại, tổng công suất các nhà máy điện năng lượng tái tạo và thủy điện vừa và lớn đạt 43.126 MW, chiếm 55,2% tổng công suất hệ thống điện của Việt Nam. Giai đoạn đến 2050, hệ thống năng lượng của Việt Nam sẽ trải qua một quá trình chuyển đổi cơ bản về cơ cấu nguồn, từ chỗ chủ yếu dựa vào nguồn nhiên liệu hóa thạch chuyển sang nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả năng lượng.
Kho cảng LNG và LPG của PV Gas (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu), nguồn cung cấp nhiên liệu sạch, góp phần chuyển đổi năng lượng. |
Xóa bỏ các rào cản
Theo quy hoạch năng lượng quốc gia và Quy hoạch Điện VIII, Việt Nam hiện có 23 dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi được đầu tư, xây dựng, đưa vào vận hành đến năm 2030 có tổng công suất 30.424 MW. Trong đó, nhà máy điện khí sử dụng khí khai thác trong nước 7.900 MW (10 dự án); nhà máy điện khí sử dụng LNG đạt khoảng 22.400 MW (13 dự án).
Tháng 6/2024, Nhà máy nhiệt điện Ô Môn I có công suất 660 MW đang sử dụng nhiên liệu dầu được đưa vào vận hành, sau đó sẽ sử dụng khí Lô B; Dự án Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4, công suất 1.624 MW, tiến độ đạt 85% sử dụng LNG từ Kho cảng LNG Thị Vải đang được xây dựng.
Ngoài ra, có 18 dự án đang trong quá trình đầu tư xây dựng, trong đó có chín dự án sử dụng khí khai thác trong nước và ba dự án đang lựa chọn nhà đầu tư với tổng công suất 4.500 MW,…
Đề cập tới những khó khăn trong việc triển khai các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam Nguyễn Quốc Thập cho rằng, việc điều chỉnh quy hoạch phát triển điện chưa có hướng dẫn trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt đối với các dự án đầu tư. Cơ chế tài chính và thu xếp vốn gặp vướng mắc do vượt quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng 15% vốn điều lệ khi cho vay theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; vốn cần thu xếp huy động cho các dự án điện lớn, hầu hết các dự án điện không thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ,… Ngoài ra, chính sách ưu đãi cho đầu tư phát triển các dự án điện, dự án sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới theo Luật Điện lực chậm được ban hành.
“Thị trường tiêu thụ điện khí tăng trưởng chậm so với mục tiêu trong Quy hoạch Điện VIII do khung pháp lý để hoàn thành, đẩy nhanh tiến độ đàm phán và ký kết thỏa thuận về pháp lý-kinh tế-thương mại giữa các chủ thể trong chuỗi dự án liên quan đến khí LNG chưa hoàn thiện. Cơ chế, tiêu chí để lựa chọn nhà đầu tư trong xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhập khẩu LNG chưa có hướng dẫn cụ thể để các nhà đầu tư tham gia,… Việc chấp thuận chủ trương và lựa chọn nhà đầu tư trong lĩnh vực điện gió còn nhiều vướng mắc và chưa thống nhất giữa các văn bản quản lý pháp luật hiện hành.
Công tác điều tra, thăm dò, đo đạc trên biển và giao khu vực biển để đầu tư dự án điện gió ngoài khơi chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục tại các văn bản pháp lý, chưa có khung chính sách giá, cơ chế giá,… là những nguyên nhân cản trở thị trường điện khí, điện gió phát triển”, ông Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh.
Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi phát triển, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng triển khai các nhóm giải pháp như: Sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ các bộ luật liên quan như Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường (kiểm đếm phát thải khí CO2; quy định, điều kiện quy đổi khí phát thải), Luật Thuế, Luật Đầu tư,...
Bộ Công thương cần nghiên cứu phát triển thị trường điện theo sát với mục tiêu Quy hoạch Điện VIII cần xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp, nhà máy có nhu cầu sử dụng điện đủ lớn; thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp, cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG, điện gió ngoài khơi; đa dạng hóa việc đầu tư hạ tầng truyền tải điện tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, nhất là truyền tải cho các nhà máy điện khí LNG và điện gió ngoài khơi,...