Hương bồ kết

Đã có nhiều bài thơ rất hay viết về các liệt sĩ. Tôi không dám đánh giá, xếp loại, nhưng có ấn tượng sâu sắc một số câu trong hai bài thơ ngắn vì cái Tình hàm chứa.

Minh họa: HOÀNG PHƯƠNG LIÊN
Minh họa: HOÀNG PHƯƠNG LIÊN

Ðó là, trong bài thơ “Lời gọi bên sông” của nhà nhiếp ảnh, nhà thơ Lê Bá Dương có những câu “Ðò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ / Ðáy sông còn có bạn tôi nằm”; chỉ có những người chiến sĩ đã từng chiến đấu ác liệt năm 1972 ở Thành cổ Quảng Trị mới có thể viết được câu thơ gan ruột xúc động lòng người như thế về đồng đội.

Và bài thơ của nhà văn quân đội Vương Trọng đăng trên báo năm 1995, viết về 10 cô gái thanh niên xung phong hy sinh tại Ngã ba Ðồng Lộc - Hà Tĩnh, trong đó có những câu: “Ngày bom đạn vùi tóc tai bết đất / Nằm dưới mồ rồi mái đầu chưa gội được / Thỉnh cầu ở đất cằn cỗi nghĩa trang / Cho mọc dậy vài cây bồ kết / Hương chia đều cho hư ảo khói nhang”. Chỉ có người đồng ngũ, cùng xông pha đạn bom mới có những thông cảm với sự hy sinh của các cô gái trẻ quê Can Lộc.

Hai bài thơ đó được khắc trên đá, đặt ở bến thả hoa trên sông Thạch Hãn và ở Nghĩa trang Ngã ba Ðồng Lộc.

Người đời khắc thơ trên bia đá là muốn để lại những ý tưởng sâu sắc và tình cảm sâu đậm cho muôn đời sau. Tấm bia đá ở Nghĩa trang Ðồng Lộc đặt dưới gốc cây bồ kết do Ðại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Tiến Tuẫn trồng, trước đó là cảnh sát giao thông, công tác tại Ngã ba oanh liệt này đã từng góp tay mai táng những đồng đội trẻ tuổi sau khi được đọc bài thơ cách đó ba năm. Bài thơ trên bia đá gần mộ các cô gái Ðồng Lộc có bản dịch sang tiếng Anh của ông Trần Ðình Hoành - Việt kiều ở Mỹ là người tôi cũng quen biết, là tiến sĩ luật, quê Tây Ninh đã từng về quê hương nhiều lần. Với trình độ Anh ngữ và tấm lòng với quê hương, chắc chắn bản dịch giữ được nguyên ý của tác giả, nhưng tôi chắc rằng, không ít người Âu, Mỹ kể cả ở châu Á gần gũi cũng có thể chưa hiểu hết ý tứ sâu sắc của bài thơ vì cái hương bồ kết.

Bây giờ, mỹ phẩm có đủ loại của ta và ngoại quốc cho các bà, các chị, nhưng vào dịp Tết vẫn thoang thoảng trong nhà tôi và cả nhà hàng xóm mùi hương bồ kết và lá mùi để những người phụ nữ tắm gội ngày tất niên. Cái mùi thơm thoang thoảng, thanh khiết của đồng nội đó làm cho không khí trong nhà thêm ấm cúng trong thời khắc thiêng liêng tiễn năm cũ đón năm mới, không có mỹ phẩm nào sánh kịp. Chính vì thế mà tôi luôn luôn nhớ tới hương bồ kết trong bài thơ thấm đẫm hồn quê và tình người của nhà thơ Vương Trọng.

Thế rồi trong những ngày tiễn đưa Ðại tướng Võ Nguyên Giáp về với Bác Hồ, tôi được nghe kể về Trung đội công binh Thép ở chốt trên đèo Pu-la-nhích và sau đó được gặp chị Dương Thị Trinh, trung đội phó, để nghe kể về hương bồ kết trong cuộc chiến đấu ác liệt trên đường Hồ Chí Minh. Chốt trên đèo Pu-la-nhích cùng với Cua Chữ A và ngầm Ta-lê nổi tiếng là trọng điểm bị máy bay địch bắn phá ác liệt nhất trên đường 20 - Quyết thắng. Chốt trên đèo Pu-la-nhích do một trung đội nữ công binh phụ trách bảo đảm thông tuyến trên đường vào Nam. Theo chị Trinh kể lại, cuộc chiến ở đây rất ác liệt suốt ngày đêm, cuộc sống của các chiến sĩ thiếu thốn đủ bề, nhất là với các nữ chiến sĩ. Tóc rụng, mái tóc dày trở thành lơ thơ, đầy chấy, áo quần không lúc nào hết bùn đất... nhưng công việc luôn hoàn thành,... Năm 1973, trong chuyến công tác kiểm tra các đơn vị làm nhiệm vụ trên đường Trường Sơn, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến thăm trọng điểm Pu-la-nhích và ông rất ngạc nhiên khi thấy giữ chốt quan trọng và nguy hiểm này lại do một trung đội nữ công binh. Ông hỏi han và rất thông cảm với cuộc sống khó khăn của chị em. “Trung đội công binh Thép” là tên do đích thân Ðại tướng đặt và nghiễm nhiên trở thành tên đơn vị. Các chị nhớ lại, độ mười ngày sau khi Ðại tướng tới thăm, khi ở trận địa về, các chị rất ngạc nhiên, phấn khởi biết “cấp trên” gửi xuống một thùng hàng. Khi mở ra thì được biết đó là quà của Ðại tướng gồm một xúc vải màn để các chị em làm vệ sinh, một trăm bánh xà-phòng và quý nhất là một bịch quả bồ kết để các chị gội đầu. Các chị nhận thùng quà, ôm bịch bồ kết mà khóc.

Tôi đã nghe kể về trung đội nữ công binh này từ lâu, nhưng đến hôm đó, tôi mới biết về bịch quả bồ kết trong túi quà của Ðại tướng. Tuy rằng cùng chung tấm lòng với đồng đội, nhưng túi quả bồ kết của Ðại tướng gửi cho “Trung đội công binh Thép” sớm hơn tám năm ước nguyện văn chương về cây bồ kết của nhà thơ Vương Trọng và sớm hơn 11 năm cây bồ kết của Ðại tá Trần Tiến Tuẫn được trồng ở Nghĩa trang Ðồng Lộc.

Tết về kể lại chuyện này để nhớ tới hương bồ kết của tình người, tình đồng bào, tình đồng đội tri ân đậm đà hương đồng nội đất Việt.