Đi tìm huyền thoại Raglai

Không biết có phải vì hình ảnh cây đàn Chapi trong bài hát của nhạc sĩ Trần Tiến hay điều gì nữa, mà tôi luôn ước một lần ngược lên núi cao, đến nơi đồng bào Raglai ở - nơi cuối dãy Trường Sơn. Cây đàn nghèo khó và thương mến ấy, cuối cùng, tôi đã được nhìn thấy tận mắt, đã được nghe tiếng nó rung ngân dưới đôi tay gầy guộc của ông già Chamaleăq Mâu. Rồi, một điều may mắn nữa, tôi đã được nghe câu chuyện về kho sử thi của đồng bào Raglai dọc theo triền núi phía tây Ninh Thuận, Khánh Hòa.

Bà Katơr Thị Sính và cô cháu gái hát sử thi.
Bà Katơr Thị Sính và cô cháu gái hát sử thi.

Hành trình của nhà nghiên cứu

Hai mươi năm trước, khi số dân Raglai ở Ninh Thuận có khoảng hơn 40 nghìn người, thì có lẽ phải xếp ông Hải Liên là một trong số đó, dù ông là người Kinh. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, ông đã lăn lộn với các bản làng đồng bào Raglai. Công việc khi đó là đi sưu tầm nhạc cụ dân tộc Raglai, từ cây đàn Chapi, rồi Mã la (Chhar), các loại khèn bầu, sáo.

“Khi đó có chủ trương sưu tầm, thống kê sử thi Tây Nguyên. Người ta đi vào vùng đồng bào Ê Ðê, Ba Na, Gia Rai. Không ai nghĩ Raglai có sử thi. Mặc dù đây là một dân tộc anh hùng và có văn hóa lâu đời, với đôi vai và đôi chân trần đã đi theo kháng chiến. Không hiểu sao tôi cứ tin người Raglai ở Ninh Thuận nhất định có sử thi. Thế là tôi viết đơn. Người ta cử tôi vào vùng đó”.

Ông Hải Liên nói rằng, quá trình phát hiện sử thi của ông “lâu và vui lắm”. Cái tên người phụ nữ ám ảnh ông nhiều năm liền là Lapia.

Thông tin của tôi ban đầu về bà ấy rất sơ sài: là người Raglai bên Khánh Sơn (tỉnh Khánh Hòa) “đẹp người, đẹp nết, hát hay vô kể, ở đâu, khi nào có hội lễ đều mời bà ấy lên hát”.

Về Khánh Sơn nghe người ta nói thế, ông Hải Liên vội vã quay về bên nhánh bắc, phía Bác Ái. Ðến đâu ông cũng hỏi về sử thi nhưng không ai biết, hỏi thăm bà Lapia cũng chẳng ai hay. Ông đến thôn Mati, xã Phước Tân, huyện Bác Ái, nơi người ta nói bà Lapia sinh sống, hỏi cán bộ cũng không biết bà Lapia là ai.

Cứ thế, ông Hải Liên lặn lộn nhiều năm tìm bà Lapia, để rồi tình cờ một hôm, ông thấy một bà cụ mặc bộ áo váy rực rỡ ba mầu (áo kuang của người Raglai) rất đẹp. Ông đến gần và hỏi bằng tiếng Raglai: Bà ơi bà có biết akhat yulukal (hát kể chuyện đời xưa) không? Bà cụ gật đầu bảo có biết. Ông hỏi tiếp, bà có biết ai tên là Lapia không, bà cụ lại gật đầu: Mình là Lapia đây mà. Ông Hải Liên và người đồng nghiệp mừng rơi nước mắt sau câu trả lời ấy. Bà Lapia quả thật có vẻ ngoài rất đẹp. Nhưng phải nhiều năm sau khi bà mất, ông Hải Liên mới nhận ra, bà chính là huyền thoại của Raglai.

Sử thi là tượng đài của dân tộc

Chính nhờ gặp bà Lapia tại làng Mati, ông Hải Liên và cộng sự đã phát hiện và ghi lại được hai sử thi lớn: Uya-Yuhea và Sa-Ea. Hơn 70 băng cát-xét với độ dài 60 phút mỗi băng. Cứ ròng rã nhiều tháng liền, năm này sang năm khác mới thu xong. Và nhờ tìm được bà Lapia, mà cuộc đời nghiên cứu của ông Hải Liên đã đi một bước ngoặt mới. Từ đây ông có thể khẳng định: Ðồng bào Raglai không những có sử thi mà còn có những bộ sử thi hết sức độc đáo, đồ sộ và phong phú. Những gì ghi âm được, nhiều năm sau là tư liệu quý giá để ông hoàn thành bộ DVD gồm 19 đĩa. Công trình “Hát kể sử thi và truyện cổ Raglai” đó của ông được trao giải nhất giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian năm 2012.

Ông Hải Liên đã sống cả một phần đời đắm chìm trong văn hóa mênh mông cao vợi của sử thi Raglai. Với ông, sử thi là “tượng đài của dân tộc”. Bởi những lời hát kể chứa bao triết lý, là nhân sinh quan, vũ trụ quan, là tấm gương phản chiếu văn hóa, xã hội với cấu trúc đầy đủ của nó, lưu giữ ký ức nguồn cội xa xôi và phản ánh thực tại hết sức sâu sắc.

Bà Lapia đã ngồi đêm đêm bên đống lửa ở nhà sàn nơi cái thôn Mati lạ lùng còn ít người biết đến ấy, hát cho ông Hải Liên ghi âm. Sau này, khi sức khỏe yếu đi, bà ngồi nhắc cho người con gái út hát. Người con út đó đã 50 tuổi rồi. Bà Lapia mất đi thì con gái cũng bỏ hát ba năm.

“Bà Lapia mất năm 2009, sống 104 tuổi, coi tôi như con trai. Khi mất, bà nằm trong ngôi nhà sàn. Tôi về chịu tang bà. Những năm trước tôi còn có sức để lên Bác Ái mỗi năm vài lần, nhưng bây giờ tôi không đi được nữa” - ông Hải Liên tâm sự, đôi mắt nhìn về vùng rừng núi xa xăm.

Và chuyến ngược ngàn nghe akhat yulukal...

Theo chỉ dẫn của ông Hải Liên, chúng tôi ngược con đường từ Phan Rang lên Ðà Lạt. Thôn Mati, xã Phước Tân, huyện Bác Ái cách TP Phan Rang bao nhiêu xa, tôi không thể nhớ nổi. Chỉ nhớ một con đường rất khó đi, chiếc xe máy cứ nhảy tông tốc giữa đá, cát, sỏi. Cứ mỗi khi tay vặn ga xe máy mỏi rã rời, mặt rát vì gió núi và bụi đường, chúng tôi lại dừng lại hỏi. “Còn xa lắm, chắc phải tối mới đến. Mà hai chị đi cẩn thận vì chỗ này hôm trước có người ngã chết”.

Mati là một thôn tái định cư nằm dưới chân núi. Những cái nhà nhỏ bằng bê-tông giống hệt nhau, cách nhau đều đặn chừng 5-10 m, quả thật khiến chúng tôi hơi thất vọng. Nhà bà Katơr Thị Sính nằm ở gần cuối dãy. Khi chúng tôi đến trời đã đổ về chiều, nhưng bà Sính đi rẫy chưa về. Người con gái của bà lùa đàn lợn chạy quanh nhà, lăn lóc cùng mấy đứa cháu gái. Tất cả đều mặc phong phanh trong cái giá buốt của gió núi về chiều lùa cắt da cắt thịt. Trên tường, trong căn nhà tái định cư, chúng tôi nhìn thấy ảnh của cụ Lapia - sau đó đứa cháu gái của bà Sính cho biết là do ông Hải Liên chụp - quả thật bà có một vẻ đẹp kỳ lạ.

Gùi một bó củi to trên lưng, bà Katơr Thị Sính quá nhỏ bé và đen đúa so hình dung của chúng tôi. Bà là con gái út của cụ Lapia (tên của cụ là Katơr Thị Cuống, Lapia là tên người con gái đầu đã mất). Bà Sính là người con gái duy nhất trong nhà biết akhat yulukal theo mẹ. Nói đến akhat yulukal, đôi mắt to đen của bà Sính như sáng rực lên. Bà gọi cô cháu gái đến, và cứ thế bà hát trước cháu hát theo sau. Giọng bà trong ngân cung trầm cung bổng như tiếng Chhar, có khúc bật lên tinh tế như tiếng khèn bầu, tiếng đàn Chapi.

Ðang hát, bà Sính bỗng dừng lại. Bà nói rằng đoạn này chỉ có mẹ bà nhớ. Những năm trước khi cụ Lapia còn sống, dù không hát được nữa nhưng cụ ngồi cạnh và nhắc con gái. Bà Sính tỏ ra tiếc nuối. Bà không chỉ tiếc đoạn akhat yulukal vừa bị gián đoạn. Bà Sính tiếc nhiều thứ lắm. Những đêm đốt lửa dưới nhà sàn trên núi cao, cùng mẹ và các chị em, cháu gái nằm nghe akhat yulukal đến sáng giờ chỉ là trong ký ức. Sử thi của người Raglai có nhiều lắm. Có sử thi bà biết, nghe mẹ hát khi còn nhỏ, nhưng không nhớ nổi câu nào. Lâu rồi, kể từ khi ông Hải Liên già ốm không lên được, bà cũng ít khi hát. Bây giờ lập thôn tái định cư, người Raglai xuống chân núi ở nhà bê-tông theo kiểu phố. Bây giờ chỉ có một cô cháu gái chịu ngồi để bà dạy hát. Một bà một cháu vẫn miệt mài cùng nhau vậy mấy năm rồi.

Cùng với hai bộ sử thi mà sau này được đánh giá là đồ sộ nhất của Raglai, các nhà nghiên cứu còn phát hiện được các sử thi khác như Kay Kamau, Jurit Bubu, Anai Mưphreh, Ano Jo-rong của đồng bào Raglai ở các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước (Ninh Thuận) và Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Tánh Linh (Bình Thuận)... Tổng cộng đến nay đã có hơn 40 truyện hát kể, trong đó có sáu truyện chắc chắn là sử thi (sau này đã được chuyên gia về sử thi thẩm định và ba trong số sáu sử thi đã được văn bản hóa) được sưu tầm khảo sát.

Sử thi Raglai nào cũng có nhân vật tiên tri bảo hộ cho dân làng, người đó dạy dân làng xem “vật thiêng”, xem nông lịch làm nương rẫy, những ứng xử trong tình yêu, tình bạn, những bài học đạo đức...