Ði trẩy hội, buồn thêm

Náo nức, háo hức, rạo rực bước chân vào lễ hội. Ðã trót lỡ bước, chẳng lẽ nửa đường bỏ về. Cái "mùi" trần tục, "mùi" thương mại ngỡ như bao trùm khắp mọi lễ hội. Ngày xưa ấy, người ta đến với lễ hội thành kính, tri ân trong sáng. Nay họ đến với sự thực dụng, cầu cúng, xin xỏ, chứ không phải để chiêm bái.

Ði lễ chùa, lễ hội có khi tâm linh bấn loạn, tâm thế chơi vơi, lòng tin dễ bị mua bán. Hóa nên, lễ hội mất thiêng. Ði trẩy hội mà nỗi buồn như mưa phùn ẩm ướt, thấm lâu, day dứt...

"Ðến hẹn lại lên", áng chừng tới cả vạn người đông nghịt, bu kín trên ngọn đồi giữa "tâm" đất quan họ. Thì vẫn là cái ao làng ấy, được coi là sân khấu nước trình diễn quan họ. Bao năm rồi, năm nào hội Lim cũng một màn diễn của những "liền anh, liền chị". Quanh quẩn trên thuyền, loay hoay giữa mặt ao đã tù đọng bao làn điệu quá quen thuộc. Chẳng cần nhìn, nhắm mắt, cũng biết ngay những câu hát như những hội trước. Năm nay, các lán quan họ được "hiện đại hóa" hơn. Hệ thống âm-ly, loa đài oang oang chứ không hát chay nữa. Thế nên, chẳng dễ gì được thưởng thức cái chất "vang rền, nền, nẩy" của những câu quan họ. Cũng những "liền anh" khăn xếp, áo the, quần ống sớ phất phơ, nhưng lại diện giày Tây. Cũng những "liền chị" áo tứ thân, mớ ba, mớ bảy, lướt thướt dải lụa đào sánh vai nhau cùng hát "Khách đến chơi nhà", "Mời trầu, mời nước"... Nhưng trước mỗi lán đều đặt ngửa chiếc nón, đựng những miếng trầu cánh phượng. Cứ mỗi miếng trầu "trao duyên", khách nghe hát phải "biết ý" bỏ vào nón những đồng tiền... công đức. Chiếc nón quai thao duyên dáng còn được những "liền chị" lúng liếng mắt cười tình tứ, ngửa tay... xin tiền khách trên bờ ao quan họ. Ðành phải "thông cảm" thôi. Một "liền chị" thản nhiên tay cầm quạt, tay cầm xấp tiền của khách xòe ra như quạt, múa may như lên đồng. Ðâu còn duyên nón quai thao...

Muốn tìm đến "gốc rễ" quan họ, phải chịu khó vào những góc làng xa khuất. Ở đây, nơi khúc sông quan họ eo thắt nhất, như cô gái thắt đáy lưng ong. Ở đây, nước lặng mà trong. Bao chất quan họ đều lắng đọng như phù sa bù đắp. "Liền anh, liền chị" trải chiếu hoa giữa nhà, đặt dăm đĩa muối với mấy lát gừng. "Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau". Ðôi bên nhấp giọng vị cay, vị mặn mà hát thâu đêm tới sáng. Một nghệ nhân cao niên thở dài, bây giờ người ta rủ nhau đi "bán" quan họ trong những nhà hàng, quán xá. Nghe đâu, mỗi canh hát kiếm vài trăm nghìn. Còn ai tha thiết, mặn mà với quan họ cổ. Hay là quan họ, như cô gái đã hết duyên, hết thời, sớm trưa một mình chẳng còn kẻ đón, người đưa? Thôi về đi! Về cho sớm, may ra còn giữ được một chút "hương vị" quan họ, còn vương vấn trong những ngõ xóm, đường làng. Còn quấn quít như khói chiều trên những mái nhà, còn đọng trên những cành xoan lấm tấm nụ hoa li ti, rắc tím đường làng...

Rời hội Lim, những câu quan họ dẫu có da diết, lúng liếng cũng không thể vợi đi nỗi buồn. Biết đi đâu cho khuây khỏa, lấy lại niềm vui? Thôi thì cứ để cho lễ hội cuốn mình đi, hòa vào dòng người cuồn cuộn, cuốn ta đi trẩy hội chùa Hương. Bốn giờ sáng, bến xe đã nêm chặt người như đêm Giao thừa quanh Hồ Gươm. Lên xe rồi vẫn chưa hết kinh hoàng. Nhồi nhét như... gà vịt. Ngoài trời mưa lất phất, ướt và lạnh giá. Trong xe nóng hầm hập hơi người. Thâm tâm tự nhủ, hành hương về đất Phật tất yếu là cuộc "hành xác", để rũ bỏ bụi trần, trút hết vẩn đục, cho tâm trong sạch, cho lòng thanh khiết. Nghĩ thế thì mới đỡ ngán ngẩm, khi đứng bên bến suối Yến lèn chặt hàng nghìn thuyền đò dày đặc, nhuộm cả một khúc suối mầu sơn đỏ chống gỉ. Hai bên bờ đen đặc những người là người. Không tiếng nước chảy, láo nháo tiếng người như chợ vỡ và tiếng loa điều hành, chỉ đạo nhói tai, nhức óc. Con đò nhọc nhằn luồn lách giữa hàng nghìn đặc kín thuyền đò, không thể bơi mà phải bám vào nhau mà đẩy đò đi. Ðoạn trường hành hương mới chỉ là khúc dạo đầu, đã thấy ngao ngán, mệt mỏi, rã rời. Một quãng đường chưa đầy vài trăm mét, bến đò Thiên Trù la liệt hàng quán, không thiếu thứ gì từ bánh mỳ Sài Gòn đến xúc xích Ðức. "Ðặc sản" Hương Sơn treo lủng lẳng: thú rừng đã cạo sạch lông hay vẫn nguyên lông. Nào là hươu, nai, hoẵng, chồn, lợn rừng. "Mùi" trần tục và "mùi" thương mại ô nhiễm chốn linh thiêng. Ngày xưa, dòng sông áp sát lối lên chùa, đò cập bến đã thấy những bậc đá chênh vênh dẫn đến chùa Thiên Trù. Giờ đây, người ta lấp đất làm thành một bãi rộng, lại kè đá chung quanh trông nhức mắt. Nhớ ngày trước, con đường dẫn đến cổng tam quan Thiên Trù, hai bên là hàng muỗm rậm rì, xanh ngắt. Nay, con đường mở rộng thênh thang, mới chứa hết được những hàng quán, nhà trọ gối chồng lên nhau. Chen vai thích cánh giữa cơ man là người, không thể vào trong chùa. Mà có vào được chưa chắc đã ra nổi. Thôi đành thắp nén nhang vái vọng, rồi tìm đường lên ga cáp treo, đỡ mấy cây số đường núi, đỡ đổ mồ hôi. Nhưng lại thấy ngao ngán, bởi người nọ trèo lên người kia mua vé. Ðông thế kia thì có đến nửa đêm cũng không đến lượt.

Con đường hành hương từ xa xưa đã mòn dấu chân bao người. Ðường xưa, lối cũ cứ thế mà leo. Khắc đi rồi khắc đến. Chậm rãi từng bước đặt chân lên từng bậc đá. Ðường núi thoáng mát, dẫu nườm nượp người lên, kẻ xuống nhưng vẫn còn không khí để thở. Nay thì càng leo gần đến động Hương Tích, lên đến đỉnh dốc nhìn về phía cửa động, càng nản lòng. Người ở đâu ra mà đông thế. Cơ sự này, chỉ còn cách quay về. Thâm tâm tự nhủ: "Phật ở trong tâm". Trong lớp khói hương mù mịt, đặc quánh như sữa kia, hàng trăm con người vẫn đang chen chúc, đội lễ vật, liệu có ai rũ bỏ được ưu phiền, ham hố cho lòng thanh khiết và thanh thản nơi cửa Phật? Lễ mở cửa rừng ở chùa Hương ngày xưa, giờ biến thành lễ hội. Ði hội thì ít, đi lễ thì nhiều. Lễ vật, hương khói che mờ, xóa nhòa lòng thành kính tri ân và thấu hiểu văn hóa tâm linh. Dăm bảy vạn người chen chân, giẫm đạp, người sau cúng vái lưng người trước.

Ðã vắng đi nhiều những ước nguyện chân tâm thầm kín. Cúng bái chẳng qua là nghi thức trong mỗi ứng xử với thần linh. Còn lễ hội được thể hiện ở không gian thiêng và thời gian thiêng trong mỗi con người. Lễ hội là kéo con người ta ra khỏi những toan tính vị kỷ, nhỏ nhen, vẩn đục. Tín ngưỡng, tâm linh là hướng thiện, tránh làm điều ác. Nhưng không có nghĩa là, người ta đi chùa chiền, cúng vái nhiều là không còn tội ác...

Tiếng trống hội, tiếng chuông chùa có lay động lòng người, thức tỉnh những mê lú, lầm lạc và biến tướng? Lễ hội lắm mà văn hóa, thuần phong, mỹ tục xuống cấp. Sao không đi đến những đền, chùa gần nơi ta ở, việc gì cứ phải lũ lượt kéo đến những nơi chốn cả nước đổ về? Cốt ở cái tâm, ở lòng thành.

NHÃ KHANH

Có thể bạn quan tâm