Khi già làng làm dân vận
Vốn là người có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, các già làng luôn được người dân và cộng đồng kính trọng. Vai trò, vị trí của các già làng được khẳng định trong quá trình tham gia cùng chính quyền các cấp làm công tác dân vận với nhiều cách làm riêng, sáng tạo và mang lại hiệu quả thiết thực; thật sự trở thành những trụ cột quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển cuộc sống mới ở các thôn, làng…
Nhắc tới nữ già làng Ksor H’Blâm (79 tuổi), người dân vùng biên giới Ia Mơr (huyện Chư Prông) luôn tự hào bởi bà chính là "cầu nối" giữa ý Ðảng và lòng dân, giữa luật tục với luật pháp. Sau 20 năm phục vụ trong quân đội, già Ksor H’Blâm trở về với làng Krông của mình và với những gì học được từ những năm tháng làm cách mạng, bà đã giúp đời sống bà con quê mình từng bước thay đổi.
"Có tận mắt chứng kiến dân làng đói khổ thì mình mới có quyết tâm để thuyết phục, để giúp đỡ họ vượt qua cái nghèo, cái khổ. Hồi đó mình vừa làm, vừa thuyết phục họ, biết cái gì thì mình truyền dạy cho người dân cái đó…", bà H’Blâm nhớ lại. Năm 1998, bà trở thành người nữ già làng đầu tiên của Tây Nguyên và ở vùng biên này.
Ðặt trên vai trách nhiệm cao cả, bà H’Blâm càng hăng say lao động sản xuất để làm gương cho dân làng. Không chỉ thuyết phục họ bằng những việc làm của mình, chỉ cho người dân cách trồng lúa, trồng cây công nghiệp sao cho mang lại hiệu quả, bà còn tạo điều kiện cho các gia đình gặp khó khăn mượn bò về nuôi đến khi bò sinh sản, bà lấy lại bò mẹ, tiếp tục cho người khác mượn, gây dựng con giống… Cứ như vậy mà nhiều gia đình đã xóa được đói, giảm được nghèo.
Với già làng Ðinh Keo (làng Pyang, thị trấn Kông Chro) cả vùng Ðông Trường Sơn người dân ai cũng biết, bởi ông nắm giữ khá nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từ cồng chiêng, tạc tượng, đan lát cho đến hát dân ca, hát kể sử thi... Chính từ lợi thế này, ông đã tạo cho mình một "bí quyết" trong công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ông tâm sự: "Sau 20 năm tham gia làm cách mạng, năm 2018, tôi về hưu và được dân làng tín nhiệm bầu làm già làng. Về sinh hoạt, gần gũi với người dân, tôi nhận ra mình không thể cứ đọc các văn bản, nghị quyết cho bà con nghe vì như thế họ sẽ không thể tiếp thu và hiểu hết được. Vậy nên chỉ có cách đi thẳng vào thực tiễn và đời sống tinh thần của họ. Có như thế, dân làng mới đồng thuận với những gì mình muốn tuyên truyền".
Theo già Keo, các dân tộc ở Tây Nguyên luôn có niềm tự hào về bản sắc văn hóa của dân tộc mình và ăn sâu vào máu thịt của đồng bào. Nhận thấy điều này, ông đã vận dụng kiến thức am hiểu về văn hóa của mình để đánh thức và khơi dậy các giá trị văn hóa vốn tiềm ẩn trong đời sống, lao động của bà con, qua đó tạo nên sự gắn kết, hòa nhập cộng đồng.
Ông Keo khẳng định: "Nếu thông báo tổ chức họp làng dù để triển khai hoặc bàn về những vấn đề quan trọng, người làng sẽ chẳng ai muốn tới nghe cả vì họ đã phải trải qua một ngày làm việc mệt mỏi trên nương rẫy. Nhưng khi nghe tiếng cồng, tiếng chiêng nổi lên ở nhà rông đầu làng, mọi người ai nấy vui vẻ sắp xếp công việc tụ hội về nhà rông, hòa mình vào từng tiếng cồng, nhịp chiêng. Khi tinh thần của dân làng đang phấn chấn, tiếng chiêng dần nhỏ lại là lúc tôi bắt đầu triển khai các vấn đề liên quan đến chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước bằng hình thức như kể chuyện, tâm tình, ngắn gọn, dễ hiểu, vậy nên người làng thích lắm. Họ hiểu và nắm bắt ngay những việc tôi muốn tuyên truyền".
Đổi mới phương thức "Dân vận khéo"
Theo báo cáo từ Ban Dân vận Tỉnh ủy Gia Lai, đến nay toàn tỉnh đã xây dựng và triển khai thực hiện được 883 mô hình, điển hình về "Dân vận khéo"; trong đó có 532 mô hình, điển hình tập thể, 352 mô hình, điển hình cá nhân trên các lĩnh vực phát triển kinh tế; văn hóa-xã hội; bảo đảm quốc phòng-an ninh; xây dựng hệ thống chính trị. Năm 2020, Gia Lai được đánh giá là có nhiều chuyển biến tích cực trong phong trào thi đua "Dân vận khéo", mà điển hình là những thành công trong việc xây dựng làng nông thôn mới trong đồng bào dân tộc thiểu số. Cho đến nay, đã có 110 thôn, làng được công nhận là làng dân tộc thiểu số xây dựng nông thôn mới.
Làng Hek, xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện được tỉnh Gia Lai và huyện Phú Thiện chọn làm điểm xây dựng làng nông thôn mới trong đồng bào dân tộc thiểu số theo tinh thần Chỉ thị số 12 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai về "Xây dựng làng nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số".
Là một trong bốn làng căn cứ cách mạng của Phú Thiện, có hơn 100 hộ, hơn 400 khẩu nhưng có đến hơn 60% số hộ nghèo do người dân chủ yếu sản xuất lúa rẫy và trồng mì, thu nhập thấp. Cũng vì lẽ đó, từ năm 1990, 12 hộ dân với gần 60 khẩu đã tự ý di dời lên định cư trên núi Cheng Leng thuộc địa phận xã H’bông, huyện Chư Sê, chấp nhận cuộc sống biệt lập, ốm đau không được chữa bệnh, trẻ em không được học hành… Sau khi được sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị, năm 2020, làng Hek được công nhận là làng đạt chuẩn nông thôn mới.
Bây giờ, làng đã được sắp xếp, quy hoạch lại bài bản; 11 trục đường bê-tông chia làng thành tám ô bàn cờ, lấy nhà rông làm khu trung tâm; mỗi hộ dân được cấp 600m2 đất để làm nhà, chung quanh được rào ngăn nắp bằng lưới và trụ bê-tông có cổng, ngõ; gia súc được nuôi nhốt không phải thả rông, người dân được dùng điện, sử dụng nước sạch...
Nhớ lại những ngày đầu vận động người dân, đồng chí Ðỗ Ngọc Thành, nguyên Bí thư Huyện ủy Phú Thiện cho biết: Từ thành công của làng Hek, chúng tôi rút ra được nhiều điều bổ ích cho công tác dân vận; nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ðó là phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, qua đó giúp người dân tìm lại giá trị của cuộc sống cộng đồng. Vấn đề khó nhất lúc bấy giờ là làm sao vận động, thuyết phục để 12 hộ dân ở trên núi Cheng Leng về lại làng, hòa nhập với cộng đồng. Cùng với quá trình tiến hành quy hoạch làng Hek, bên cạnh sự giúp sức của các già làng, người có uy tín đến từng nhà vận động; phân công cụ thể từng tổ chức, đoàn thể trong việc theo dõi, giúp đỡ người dân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc…, chúng tôi tiến hành tổ chức ngay việc đưa tất cả con em của người dân được đến trường, bố trí ăn ở nội trú; đưa bác sĩ lên khám, chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con… Sau đó, chúng tôi tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao giữa các hộ với người dân các làng ở dưới núi; nhờ vậy chỉ sau thời gian ngắn, bà con đã ổn định tư tưởng và bắt đầu cuộc sống mới".
Bà Phạm Thị Tố Hải, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy Gia Lai cho biết: "Gần dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận là kinh nghiệm được các tổ dân vận trên địa bàn tỉnh đúc kết từ thực tiễn. Thời gian tới, việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào "Dân vận khéo" ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải thường xuyên, cụ thể, sát với tình hình thực tế của địa phương, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, coi trọng tính thiết thực, hiệu quả, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; ưu tiên tập trung vào việc giải quyết những việc khó, những việc mới nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội; đặc biệt chú trọng, đề cao và phát huy tốt vai trò của già làng, người có uy tín nhằm tuyên truyền, vận động người dân thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong lao động sản xuất, tổ chức cuộc sống gia đình, tiến tới xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập".