Ngày 7/9/2009, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 38-CT/TW về đẩy mạnh công tác bảo hiểm y tế trong tình hình mới (sau đây gọi tắt là Chỉ thị số 38).
Với mục tiêu đặt quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách làm trọng tâm, thời gian qua, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã quyết liệt chỉ đạo bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (bảo hiểm xã hội các tỉnh) tổ chức, thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm y tế.
Theo đó, thực hiện Chỉ thị số 38, công tác thực hiện chính sách bảo hiểm y tế trong giai đoạn 2009-2024 đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng, như: độ bao phủ bảo hiểm y tế tăng đều qua từng năm và tiệm cận với mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân; quyền lợi người tham gia bảo hiểm y tế được bảo đảm kịp thời với thủ tục ngày càng cải cách theo hướng tạo thuận lợi, tăng sự hài lòng cho người thụ hưởng...
Với vai trò là một trong những trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương đã vào cuộc mạnh mẽ thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm y tế. Đến nay, các tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, trong đó đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban. Hệ thống Tổ chức dịch vụ thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục được mở rộng, bố trí các điểm thu, nhân viên thu đến từng thôn, bản, tổ dân phố.
Là cơ quan tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, toàn ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đã bám sát thực tiễn, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động phối với các bộ, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương kịp thời đưa ra những giải pháp đồng bộ, đúng hướng, quyết liệt.
Bác sĩ Bệnh viện mắt Hà Nội 2 khám cho bệnh nhi. |
Kết quả, số người tham gia bảo hiểm y tế năm sau luôn cao hơn năm trước, đặc biệt tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế tăng trưởng bền vững trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, thách thức nhiều hơn là thuận lợi. Cụ thể như sau:
Năm 2008, toàn quốc có 39,7 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tỷ lệ bao phủ đạt 46,1% dân số.
Năm 2009, sau khi Chỉ thị 38 được ban hành, toàn quốc có hơn 50 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (tăng hơn 10 triệu người so năm 2008), tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 58,2% dân số.
Năm 2023, có hơn 93,6 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tăng gấp 2,3 lần so năm 2008, thời điểm chưa có Chỉ thị số 38, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 93,35% dân số, vượt 0,15% so Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ.
Đặc biệt, kết quả phát triển người tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình có sự tăng trưởng rất ấn tượng, từ 3,76 triệu người tham gia (năm 2009) tăng lên thành 24,89 triệu người (năm 2023), gấp 6,6 lần so năm 2009.
Việc giữ vững tốc độ phát triển bảo hiểm y tế trong khi đời sống người dân còn khó khăn một lần nữa đã khẳng định sự kiên định, quyết liệt của toàn hệ thống chính trị nói chung và ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện hiệu quả lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Đây vừa là nhiệm vụ chính trị vừa thể hiện trách nhiệm của ngành trong bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ở nước ta đã tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Đây không chỉ là minh chứng thể hiện sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân mà còn cho thấy vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự nhận thức, hiểu biết của người dân, doanh nghiệp, người lao động về ý nghĩa, giá trị, lợi ích của chính sách bảo hiểm y tế và nghĩa vụ tuân thủ pháp luật bảo hiểm y tế đã nâng cao rõ rệt.
Để tạo nên kết quả tích cực đó, công tác truyền thông, tư vấn bảo hiểm y tế đóng vai trò quan trọng là cầu nối để lan tỏa chính sách bảo hiểm y tế đến với Nhân dân. “Công tác truyền thông phải luôn đi trước một bước” là quan điểm nhất quán của toàn ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam từ chỉ đạo, điều hành cho đến hành động. Ngày 24/8/2017, Ban Cán sự đảng Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 96-NQ/BCS về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác truyền thông bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong tình hình mới tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thông tin, truyền thông về chính sách pháp luật bảo hiểm y tế.
Thẻ bảo hiểm y tế. |
Thời gian qua, công tác truyền thông chính sách bảo hiểm y tế đã được triển khai đồng bộ, tăng cường, đổi mới theo hướng chuyên nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nội dung, hình thức, phương pháp truyền thông ngày càng đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc thù từng nhóm chủ đề, đặc điểm văn hóa vùng miền, bảo đảm truyền tải thông tin tới người dân, người lao động dễ nghe, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan thông tấn, báo chí cả Trung ương và địa phương đã tổ chức thành công trên 1.000 hội nghị, hội thảo…, hơn 170.000 tin, bài, phóng sự…, phát hành hàng chục triệu ấn phẩm các loại.
Cùng với đó, cơ quan này còn phát huy thế mạnh của truyền thông số, truyền thông hiện đại, như: xây dựng, vận hành các kênh truyền thông mạng xã hội (Fanpage, Zalo OA) của Bảo hiểm xã hội Việt Nam; phát huy hiệu quả tư vấn, giải đáp thông tin cho nhân dân qua hệ thống chăm sóc khách hàng, ứng dụng VssID- Bảo hiểm xã hội số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trên các kênh hotline và Cổng thông tin điện tử của ngành.
Trong đó, Hệ thống chăm sóc khách hàng (Call Center), bảo đảm hoạt động 24/7, đã tiếp nhận hỗ trợ, tư vấn, giải đáp vấn đề có liên quan đến chế độ bảo hiểm y tế cho 18.851 lượt cuộc gọi, góp phần giúp ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đẩy mạnh việc chuyển đổi từ hình thức giao dịch trực tiếp sang hình thức sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
Đặc biệt, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để xây dựng ngân hàng 3.000 câu hỏi/trả lời với hơn 110.000 dữ liệu huấn luyện và sớm vận hành Hệ thống trả lời tự động với mục tiêu nâng cao khả năng hỗ trợ người dân và tổ chức khi tương tác với cơ quan bảo hiểm xã hội.
Với quan điểm xuyên suốt "Lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, trung tâm phục vụ", ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam luôn nỗ lực bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đúng quy định các quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách bảo hiểm y tế. Số lượt người có thẻ bảo hiểm y tế đi khám, chữa bệnh tăng nhanh qua từng năm. Cụ thể như vào năm 2009, có 88,64 triệu lượt khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế với tổng chi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế là 15.396 tỷ đồng. Đến năm 2023, con số này đã tăng lên 174 triệu lượt khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Từ năm 2009 đến năm 2023, bình quân lượt khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế mỗi năm là trên 141 triệu lượt/năm (tăng 59,5% so với năm 2009), với tổng chi phí khám, chữa bệnh bình quân 66,2 nghìn tỷ đồng/năm (tăng 330% so với năm 2009).
Đặc biệt, trong giai đoạn cả nước bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, vai trò trụ cột của chính sách bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội càng được phát huy, góp phần chăm sóc sức khỏe, ổn định đời sống nhân dân, tạo thêm niềm tin vững chắc vào chính sách an sinh xã hội giàu tính nhân văn của Đảng và Nhà nước.
(Đơn vị: Triệu lượt/năm) (Nguồn: VSS) |
Bên cạnh việc giải quyết, chi trả chế độ, chính sách bảo hiểm y tế đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, Bảo hiểm xã hội Việt Nam còn tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để tạo ra nhiều tiện ích, lợi ích cho người tham gia, thụ hưởng và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc phát hiện, phòng chống lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm y tế.
Theo đó, toàn ngành đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính cắt giảm từ 115 thủ tục (năm 2015) xuống còn 25 thủ tục; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác nghiệp vụ, như: tin học hóa hầu hết các thủ tục tham gia bảo hiểm y tế và cấp thẻ bảo hiểm y tế; triển khai giao dịch điện tử đối với các tổ chức và cá nhân; triển khai 100% dịch vụ công mức độ 4 cho các thủ tục hành chính của ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam; tích hợp, cung cấp trên cổng dịch vụ công Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Cổng dịch vụ công quốc gia và ứng dụng VssID-bảo hiểm xã hội số trên nền tảng thiết bị di động...
Kết quả, các năm qua, Hệ thống của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý gần 300 triệu lượt hồ sơ giao dịch trực tuyến, trong đó mỗi năm có hơn 170 triệu lượt đề nghị thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế trên Hệ thống thông tin giám định bảo hiểm y tế.
Hệ thống Thông tin giám định bảo hiểm y tế được Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng và vận hành chính thức từ tháng 7/2016, đã kết nối liên thông dữ liệu giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với gần 13 nghìn cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế trên toàn quốc. Hệ thống thông tin giám định bảo hiểm y tế liên thông với các phần mềm nghiệp vụ để cập nhật, theo dõi người tham gia đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu tại các tuyến, liên thông dữ liệu với phần mềm kế toán tập trung để quản lý tạm ứng, thanh toán chi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại từng cơ sở khám, chữa bệnh, để chống trục lợi giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản.
Đặc biệt, Bảo hiểm xã hội Việt Nam là một trong những đơn vị đi đầu trong triển khai các nhiệm vụ được giao tại Đề án 06 và Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 4/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong đó, điểm nổi bật là đơn vị phối hợp Bộ Công an chia sẻ thử nghiệm thông tin sổ bảo hiểm xã hội, thông tin khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế để đưa lên ứng dụng VNeID. Chia sẻ thông tin thẻ bảo hiểm y tế để phục vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp hoặc bằng ứng dụng VneID.
Cùng với đó, triển khai sử dụng đa nền tảng khi đi khám, chữa bệnh bằng căn cước công dân, VssID - bảo hiểm xã hội số, ứng dụng định danh điện tử VNeID. Đến nay, 100% cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đã triển khai khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chip (đáp ứng yêu cầu tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân), với hơn 55,7 triệu lượt tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân thành công phục vụ làm thủ tục khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế…
Ứng dụng thí điểm xác thực thông tin sinh trắc học trên căn cước công dân gắn chip trong khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Qua đó giúp thuận lợi cho người bệnh, thủ tục khám, chữa bệnh nhanh chóng, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng phối hợp, hỗ trợ Bộ Y tế liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chứng sinh, giấy báo tử. Tính đến nay, trên toàn quốc có 1.216 cơ sở khám, chữa bệnh đã gửi dữ liệu giấy khám sức khỏe lái xe, với 2.058.654 dữ liệu được gửi; có 1.582 cơ sở khám, chữa bệnh gửi dữ liệu giấy chứng sinh, với 852.542 dữ liệu được gửi; 596 cơ sở khám, chữa bệnh gửi dữ liệu giấy báo tử, với 8.575 dữ liệu được gửi.
Đặt quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế làm trọng tâm, trong quá trình thực hiện giải quyết, chi trả chế độ, chính sách bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế và các Bộ, ngành liên quan giải quyết khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm y tế. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở khám, chữa bệnh tổ chức cung ứng dịch vụ y tế, bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế và cùng thực hiện trách nhiệm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm y tế.
Có thể khẳng định, những thành tựu đạt được trong 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38 của Ban Bí thư về công tác bảo hiểm y tế là nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là của ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Y tế.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm y tế không chỉ gia tăng tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế, tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân mà còn bảo đảm tốt quyền lợi bảo hiểm y tế của người thụ hưởng; mở rộng về phạm vi, chất lượng dịch vụ, khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Do đó, người dân ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, ý nghĩa, tính ưu việt của chính sách bảo hiểm y tế và tin tưởng, tích cực tham gia vào hệ thống an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta.