Tại Ðại hội Ðảng lần thứ III, tháng 9-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: "Chỉ riêng trong cấp Trung ương của Ðảng đã có 14 đồng chí bị đế quốc Pháp bắn, chém hoặc bị đập chết trong tù... Trong 31 đồng chí hiện nay là Ủy viên Trung ương, trước ngày khởi nghĩa đã được đế quốc Pháp "tặng" cho 222 năm tù đày. Ðó là không kể những án tử hình vắng mặt và những cuộc vượt ngục trước khi hết hạn tù. Thép đã được tôi luyện trong lửa đỏ và nước lạnh để trở nên cứng rắn, và không hề sợ trước thử thách!".
Xin ghi lại mấy dòng nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của đồng chí Trần Tử Bình - một đảng viên lớp đầu tiên của Ðảng, một trong những người được Chủ tịch Hồ Chí Minh kể tên, một cán bộ trung thành, tận tụy, tài năng, một nhân cách trong sáng.
Trần Tử Bình tên thật là Phạm Văn Phu, sinh ngày 5-5-1907, trong một gia đình nông dân công giáo nghèo tại thôn Ðồng Chuối, xã Tiêu Ðộng, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Thuở niên thiếu, cậu bé Phu phải sống trong nghèo khó. Khi chiến tranh thế giới lần thứ I bùng nổ, cha bị bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn cho "Mẫu quốc". Cậu bé Phu phải đi ở cho Nhà thờ. Do sáng dạ, sớm biết đọc biết viết nên năm 1925 anh được giới thiệu vào học tại Chủng viện la-tinh Hoàng Nguyên (giáo phận Hà Ðông).
Tại Chủng viện, được tiếp xúc với sách báo tiến bộ, anh tham gia các hoạt động phản đối sự miệt thị của các linh mục người Pháp với linh mục người Việt. Do tích cực tham gia để tang cụ Phan Chu Trinh vào năm 1926, anh bị đuổi học. Rời Chủng viện, gặp Tống Văn Trân - một chiến sĩ cách mạng, được giác ngộ Cương lĩnh của Ðảng Thanh Niên, anh bước đầu giác ngộ lý tưởng đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Năm 1927, anh vào Nam Bộ tham gia "vô sản hóa", trở thành công nhân đồn điền cao-su Phú Riềng thuộc hãng Mi-sơ-lanh.
Tại đồn điền Phú Riềng, được anh em công nhân tin cậy, anh trở thành trung tâm đoàn kết trong cuộc đấu tranh với giới chủ: chống đánh đập, cúp lương, bảo đảm các quyền lợi theo giao kèo... Các cuộc đấu tranh ban đầu của công nhân cao-su làm xôn xao dư luận báo chí Nam Kỳ. Ðồng chí Ngô Gia Tự đang hoạt động, tham gia "vô sản hóa" tại Sài Gòn, đã quan tâm đến phong trào, đầu năm 1928 đã cử đồng chí Nguyễn Xuân Cừ lên Phú Riềng vận động cách mạng. Người đầu tiên Nguyễn Xuân Cừ tìm đến là Phạm Văn Phu. Tháng 5-1928 thay mặt Kỳ bộ Nam Kỳ Ðảng Thanh Niên, Nguyễn Xuân Cừ thành lập chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội tại đồn điền Phú Riềng. Phạm Văn Phu vinh dự đứng trong tổ chức cách mạng Mác-xít non trẻ này. Ngày 28-10-1929, theo chỉ đạo của Ngô Gia Tự, Nguyễn Xuân Cừ tuyên bố thành lập chi bộ Ðông Dương Cộng sản Ðảng tại Phú Riềng, gồm sáu đảng viên, trong đó có Phạm Văn Phu. Cuối năm 1929, anh thay Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư chi bộ. (Sau này ngày 28-10-1929 trở thành ngày truyền thống của ngành cao-su Việt Nam).
Ngày 3-2-1930, chi bộ Phú Riềng lãnh đạo cuộc đấu tranh nổi dậy đòi quyền sống của hơn 5.000 công nhân đồn điền cao-su Phú Riềng, làm nên một "Phú Riềng Ðỏ" oai hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Ðồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án hai lần. Lần thứ nhất, bị đày ra Côn Ðảo từ 1931 - 1936. Tại Côn Ðảo, đồng chí tích cực tham gia các hoạt động của chi bộ Ðảng trong nhà tù, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Ðồng chí tham gia học tập các lớp lý luận cách mạng. Trong những năm tháng tù đày, đồng chí kết thân với các chiến sĩ cách mạng kiên cường như Tôn Ðức Thắng, Tống Văn Trân, Ngô Gia Tự, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Phạm Văn Ðồng, Hà Huy Giáp, Trần Xuân Ðộ, Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, Bùi Công Trừng... tình bạn, tình đồng chí cùng tri thức cách mạng giúp đồng chí vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của nhà tù đế quốc, vững tin ở lý tưởng cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Lần thứ hai, đồng chí bị mật thám Pháp bắt vào 24-12-1943 trên đường sang Thái Bình khi đang là Xứ ủy viên Bắc Kỳ, Bí thư Liên khu C (Hà Nam, Ninh Bình, Nam Ðịnh, Thái Bình). Kẻ thù dùng mọi cực hình tra tấn, song đồng chí đã giữ vững khí tiết, bảo vệ bí mật của Ðảng, không chịu khuất phục. Tòa án thực dân kết án đồng chí 20 năm tù, đưa về giam ở Hỏa Lò Hà Nội. Tại đây cùng Trần Ðăng Ninh, Lê Tất Ðắc... đồng chí tham gia tổ chức các lớp huấn luyện lý luận, bồi dưỡng quân sự, đường lối của Việt Minh cho tập thể tù chính trị. Ðồng chí được anh chị em tù chính trị tín nhiệm. Lợi dụng thời cơ Nhật đảo chính Pháp, tối 9-3-1945, đồng chí tham gia lãnh đạo thành công cuộc vượt ngục của gần 100 tù chính trị theo đường vượt tường rào và đường cống ngầm. Ðây là cuộc vượt ngục thành công nhất trong lịch sử đấu tranh của tù chính trị Việt Nam trong nhà tù đế quốc. Các tù chính trị mau chóng bắt liên lạc với tổ chức, bổ sung ngay cho các địa phương, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa 19-8-1945. Nhiều đồng chí sau này đảm đương những cương vị quan trọng trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng: Trần Ðăng Ninh, Nguyễn Lam, Nguyễn Thanh Bình, Lê Tất Ðắc, Trương Thị Mỹ, Lê Quốc Thân, Nguyễn Văn Kha, Vũ Tuân, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Trọng Nghĩa...
Tháng 5-1945, đồng chí tham gia Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Cuối tháng 7-1945, Bí thư Nguyễn Văn Trân và Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Trần Quốc Hoàn được triệu tập lên Việt Bắc dự Hội nghị toàn Ðảng và Quốc dân Ðại hội, triển khai Tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Công việc của cơ quan Thường vụ Xứ ủy được giao cho hai Ủy viên thường vụ: Trần Tử Bình và Nguyễn Khang. Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, với tinh thần trách nhiệm cao trước Ðảng, trước vận mệnh dân tộc, ngày 17-8-1945, tại An toàn khu của Xứ ủy ở làng Vạn Phúc (thị xã Hà Ðông), nhân danh Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Trần Tử Bình và Nguyễn Khang quyết định phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ vào ngày chủ nhật 19-8-1945.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đồng chí được Thường vụ Trung ương điều về phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật, đào tạo cán bộ quân sự cho quân đội của nước Việt Nam mới. Anh gắn bó với quân đội trong nhiều năm.
Thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, trong quân đội duy trì sự lãnh đạo của Ðảng thông qua Quân ủy do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư, Trần Tử Bình là Phó Bí thư, cùng các Ủy viên: Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Chu Văn Tấn, Lê Liêm, Nguyễn Sơn. Thời kỳ đó tôi phụ trách Văn phòng Trung ương Ðảng nên thường xuyên có quan hệ với Quân ủy. Các đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Vũ Oanh lần lượt phụ trách Văn phòng Quân ủy do anh Bình trực tiếp lãnh đạo. Quân ủy đã lãnh đạo xây dựng hoàn chỉnh hệ thống tổ chức các cấp của Ðảng trong quân đội. Ðiều đó bảo đảm cho sự lãnh đạo tuyệt đối của Ðảng đối với lực lượng vũ trang cách mạng.
Sau chiến thắng Thu-Ðông 1947 bảo vệ Chiến khu Việt Bắc, tháng
1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm cho 11 cán bộ cao cấp của Quân đội Nhân dân Việt Nam: Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình và chín thiếu tướng, trong đó có Trần Tử Bình.
Tên tuổi anh gắn liền với sự nghiệp quản lý, đào tạo cán bộ quân đội trong suốt thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp. Anh còn có nhiều đóng góp với công tác thanh tra, kiểm tra, chống tham ô, tham nhũng trong quân đội. Anh là một vị tướng được cán bộ, chiến sĩ tin tưởng, yêu quý. Hòa bình lập lại, trên cương vị Tổng thanh tra quân đội, Phó tổng Thanh tra Chính phủ, anh tích cực tham gia sửa sai trong Cải cách ruộng đất, trực tiếp minh oan, giải oan cho nhiều cán bộ, cơ sở, cứu sống nhiều người, góp phần lấy lại lòng tin của nhân dân đối với Ðảng, Chính phủ.
Tháng 4-1959, anh được Ðảng, Nhà nước giao nhiệm vụ mới mẻ, quan trọng - Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Mông Cổ. Trên mặt trận ngoại giao, anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị giữa nhân dân, Ðảng, Nhà nước ta với các nước anh em. Anh được Ðảng, Nhà nước, nhân dân bạn rất tín nhiệm. Ðặc biệt trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, nội bộ các nước XHCN có những bất đồng, tình hình Trung Quốc có nhiều biến động nhưng trên cương vị Ðại sứ anh luôn tranh thủ một cách hiệu quả nhất sự giúp đỡ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam.
Ðồng chí Trần Tử Bình là một cán bộ tiêu biểu cho thế hệ cách mạng lão thành của Ðảng, một thế hệ luôn "Trung với Ðảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Trong Ðảng, anh Bình là người có tín nhiệm cao, luôn là một tấm gương noi theo đạo đức, tác phong Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư". Tại Ðại hội III, năm 1960, thay mặt các lão thành cách mạng và đảng viên lớp đầu tiên, anh được bầu vào Chủ tịch đoàn rồi được tín nhiệm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.
Chị Nguyễn Thị Hưng, vợ anh Bình, đảng viên từ năm 1939, là một cán bộ gương mẫu. Hai anh chị có nhiều bạn bè thân thiết, trong đó có gia đình tôi. Tôi và anh Bình là đồng hương Hà Nam, là đồng chí trong công tác cách mạng, là bạn bè trong cuộc sống đời thường, vì thế chúng tôi là đôi bạn tri kỷ.
Về nước họp Trung ương vào đầu 1-1967, anh bị cảm rồi đột ngột từ trần vào ngày 11-2-1967, nhằm ngày mồng 3 Tết Ðinh Mùi, trong sự tiếc thương vô hạn của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân!
Cuộc đời của đồng chí Trần Tử Bình là một cuộc đời không ngừng đấu tranh vì lý tưởng cách mạng của Ðảng, gắn liền với lịch sử đấu tranh vẻ vang, anh dũng của dân tộc Việt Nam. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 40 năm ngày mất của anh, xin thắp một nén tâm nhang tưởng nhớ một người bạn, một người đồng chí thân thiết.
Hoàng Tùng
Nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân