Thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã làm thăng hoa những giá trị lớn của dân tộc, làm cho tên tuổi Việt Nam đồng nghĩa với chiến thắng, với lương tri thời đại.

Trong những giá trị lớn ấy, có thành tựu của văn học, của thơ ca.

Chưa bao giờ có sự thống nhất giữa sống và viết, giữa anh hùng và lãng mạn, giữa khoảnh khắc và trường tồn như thời kỳ ấy trong lịch sử văn học.

Nhân kỷ niệm 30 năm Ðại thắng mùa Xuân, chào mừng Ðại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII, NDCT trân trọng giới thiệu một số bài thơ của một số nhà thơ tiêu biểu thời chống Mỹ, nhằm khẳng định lại một giá trị; gợi lại không khí của những thời điểm đáng nhớ trong chiến tranh và ở thời khắc giải phóng; nhất là thế sống cao đẹp của những nhà thơ - chiến sĩ.

Trang thơ này có sự hợp tác tuyển chọn của nhà thơ Nguyễn Ðức Mậu.

Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây

PHẠM TIẾN DUẬT

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông với Trường Sơn tây

Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa khí trời cũng khác
Như anh với em như nam với bắc
Như đông với tây một dải rừng liền

Trường Sơn tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không?

Em thương anh bên tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù

Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư

Ðường sang tây không phải đường thư
Ðường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Ðông Trường Sơn, cô gái "Ba sẵn sàng" xanh áo
Tây Trường Sơn, bộ đội áo màu xanh

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ðông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn.

Phan Thiết có anh tôi

HỮU THỈNH

Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn cỏ
Ðồi thì rộng anh không vuông đất nhỏ
Ðất và trời Phan Thiết có anh tôi 

Chính ở đây anh thấy biển lần đầu
Qua cửa hầm
Sau những ngày vượt dốc
Biển thì rộng căn hầm quá chật
Khẽ trở mình cát đổ trắng hai vai.

Trong căn hầm mùi thuốc súng mồ hôi
Tim anh đập không sao ghìm lại được
Gió nồng nàn hơi nước
Biển như một con tàu sắp sửa kéo còi đi.

Những ngôi sao tìm cách sáng về khuya
Những người lính mở đường đi lấy nước
Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp
Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi
Biển ùa ra xoắn lấy mọi người

Vì yêu biển mà họ thành sơ hở
Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ
Mất chỉ còn cách nước một vài gang.
Anh ở đây mà em mãi đi tìm
Em hy vọng để lấy đà vượt dốc
Tân Cảnh
Sa Thầy
Ðắc Pét
Ðắc Tô

Em đã qua những cơn sốt anh qua
Em đã gặp trận mưa rừng anh gặp
Vẫn không ngờ có một trưa Phan Thiết
Em một mình đứng khóc ở sau xe.

Cánh rừng còn kia trận mạc còn kia
Vài bước nữa thì tới đường Số Một
Vài bước nữa
Thế mà
Không thể khác
Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi

Em chưa hay cánh đồi ấy tên gì
Nhưng em biết ngày ngày anh vẫn đứng
Anh chưa biết đã tan cơn báo động
Chưa biết tin nhà không nhận ra em.

Không nằm trong nghĩa trang
Anh ở với đồi anh xanh vào cỏ
Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình
Ðồi ở đây cũng là con của mẹ.
Lo liệu trong nhà dồn xuống vai em

Tiếng còi xe Phan Thiết bước vào đêm
Ðèn thành phố soi người đi câu cá
Anh không ngủ người đi câu không ngủ
Biển đêm đêm trò chuyện với hai người.

Cứ thế từng ngày Phan Thiết có anh tôi.

                                                1981

----------------

(*) Bài thơ này đã được giới thiệu ở một số tập sách, nhưng để sót 5 câu cuối. Ðây là bản đầy đủ.

Nghĩa trang trong rừng đước

NGUYỄN DUY

Ðắp cho anh nấm đất mặn nơi này
Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn
Xót thịt xót xương, xót người nằm xuống
Thủy triều lên nấm mộ cũng ngập chìm 

Rừng đước này chưa bao giờ lặng im
Lấn ra biển suốt ngàn năm bão táp
Người đất này chưa một ngày bình yên
Sống lau lách cả trăm năm giữ đất 

Người còn sống đi đón người đã khuất
Xuống ghe đưa các anh về nghĩa trang
Từ hoang vắng mọi ngả rừng, gốc rạch
Các anh về đây ở thành xóm thành làng.

Mút mắt là biển khơi và rừng đước đại ngàn
Cồn cào gió và cồn cào sóng vỗ
Gốc đước già tạc mộ chí cho anh
Có đá của lòng người trong thớ gỗ.

Hàng chữ đọng sơn như mắt người ứa lệ
Như mắt người nhìn nhau
Như lời ai rơm rớm trên hàng hàng bia mộ
Có những người không quê ở Cà Mau!

                   Viên An, 13-2-1977

Giặt áo trên sông Bạch Ðằng

THI HOÀNG

Thắng Mỹ trận cuối cùng
Ta ra sông giặt áo

Với sức nước nở nang
Với tấm trời cao ráo
Thật mà sao kỳ ảo
Con thuyền ơi, con thuyền!

Giặt áo nào anh em
Hôm nay trời nắng đẹp
Nắng từ bể đông lên
Nước từ nguồn chảy xuống

Quân Nguyên, quân Nam Hán
Ở ngược dòng thời gian
Những cái chết lưu vong
Nói gì trong cát lấm

Phía Tràng Kênh đá ngóng
Phía Thủy Nguyên lúa vời
Chỉ dòng nước trôi thôi
Lòng sông thì vẫn đó

Tấm áo đầy bụi đường
Những tháng năm gian khổ
Giặt nước sông Bạch Ðằng
Gửi dòng sông bụi đỏ 

Nhận của sông lịch sử
Ðể không quên, đừng quên
Ðể thấm trong vải mềm
Một dòng sông tâm khảm

Bờ gió và bờ nắng
Hong đều cho áo khô
Thấy trời đất rộng xa
Khi mặc vào tấm áo

Hồn nước non thơm thảo
Như phù sa nhân từ
Làm tươi tốt lòng ta
Tự lòng sông lớn ấy

Gió sau lưng thổi dậy
Nghe Bạch Ðằng đi bên

                   1976

Khoảng lặng yên tháng tư

NGÔ THẾ OANH

Tôi chưa bao giờ gặp đâu một bầu trời như thế
bầu trời trong cao rộng khác thường
những hàng me vừa mùa thay lá
sắc xanh non tuôn sáng những bờ đường

Sau cơn mưa thành phố như gương
lấp lánh những tường nhà khuôn mặt
những lá cờ trên những ô cửa sổ đỏ tươi
những lá cờ... không hiểu sao tôi bỗng rưng nước mắt

mặt trời thật giản dị trên cao
quân phục đẫm mồ hôi bụi khát
những vòm sao cao vút trên đầu
cụm mây trắng tinh di động về đâu
đồng đội của tôi đồng đội của tôi
nói gì được nữa đây trong buổi mai toàn thắng
bỗng thấm thía hơi ấm bàn tay bạn
đất dịu mát dưới chân không sao thốt lên lời

khoảnh khắc thành phố đường lặng yên
lặng yên hàng cây
lặng yên vòm trời
lặng yên những căn nhà
lặng  yên những lá cờ trong nắng
lặng yên nét cười thắm sâu mắt bạn

Khoảnh khắc thành phố như mặt biển
rồi tất cả trào lên cuồn cuộn thủy triều.

                                                Sài Gòn 1975

Mắc võng ở Sài Gòn

ANH NGỌC

Lần đầu về với Sài Gòn
Loay hoay tìm nơi mắc võng
Nhìn bốn bức tường nhẵn bóng
Thương tình chẳng nỡ đóng đinh

Suốt đêm nằm không trở mình
Hai đầu võng treo song cửa
Mơ màng nửa thức nửa ngủ
Bâng khuâng nửa phố nửa rừng

Ru anh như chiếu như giường
Ðệm chăn đầu không bén gối
Trong mơ chợt nghe tiếng suối
Mở mắt quạt trần đang quay.

                   Sài Gòn, 3-5-1975

Lý ngựa ô ở hai vùng đất

PHẠM NGỌC CẢNH

Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu
gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi
lý ngựa ô em hát đợi bên cầu

hóa vô tận bao điều mơ tưởng ấy
bao câu hát ông cha mình gởi lại
sao em thương câu lý ngựa ô này
sao anh nghe đến lần nào cũng vậy
sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy
chỉ riêng mình em hát với anh đây.

Làng anh ở ven sông
sắp vào tháng tư
mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng
mùi hương xông nụ cười lên nhẹ bổng
ai chẳng ngỡ mình đang đi trong mây
ai chẳng tin mình đang rong ngựa sắt
cả một vùng sông ai chẳng hát
sao không nghe câu lý ngựa ô này.

Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say
qua phá rộng duềnh doàng lên dợn sóng
qua truông rậm
đến bây giờ anh buộc võng
gặp mối dây buộc ngựa gốc lim già
suốt miền trung sông suối dày tơ nhện
suốt miền trung núi choài ra biển
nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua.

Anh đa tình nên cứ muốn lần theo
xấu hổ gì đâu mà anh giấu diếm
đêm đánh giặc mịt mù cao điểm
vạch lá rừng nhìn xuống quê em
mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý
khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ
lý ngựa ô hát đến mê người
mỗi bước mỗi bồn chồn về đó em ơi. 

Hay vì làng anh ở ven sông
những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng
đã hát quen lý ngựa ô rồi
khen câu miền trung qua truông dài phá rộng
móng gõ mặt thời gian gõ trống
khen câu miền nam như giục như mời
ngựa tung bờm bay qua biển lúa
ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa
tiếng hí chào xa khơi...
hay em biết quê anh ngoài đó
câu hát bắc cầu qua một thời quan họ
câu hát xui nhau nên vợ nên chồng
lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc
có điều gì như thể ẩn vào trong?

Em muốn về hội Gióng với anh không
để anh khoe với họ hàng câu lý ấy
em muốn làm dâu thì em ở lại
lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi
đồng đội của anh đã trọn mùa thắng giặc
cũng sắp về chia vui.

                             2-1976

Người cắt dây thép gai

HOÀNG NHUẬN CẦM

1.

Dây thép gai con cò không đậu được
Nghe tiếng ru hời, sao cò cứ bay xa.
Anh cắt chúng  đi cho con cò bay lại
Trong đêm khuya, tiếng vỗ cánh trên đầu.

Thương cây cùng thương đất như nhau,
Nên anh khóc khi nhìn cây nhựa chảy.
Con sông gẫy và nhịp cầu cũng gẫy
Ðâu bóng em anh chải tóc hàng ngày.

Cánh cò bay... cánh trắng... con cò bay
Gió từ cánh con cò nào thổi dậy.
Ðất nước mình bao năm chia cắt đấy
Anh nói gì trong hai bàn tay

2.

Và rơi xuống hàng rào thứ nhất!
Cỏ lại hát những lời riêng của đất
Nhựa lại về nối lại những cành cây
Cò ơi... về đây!... Ðừng bay, đừng bay.

Anh đã cắt đến hàng rào thứ hai
Nhịp cầu gẫy bây giờ chưa liền lại
Ðấy là nhịp cầu sang nhà bạn gái
Có bóng em anh soi xuống hiền hòa.

Anh đã cắt sang hàng rào thứ ba
Con sông đứt khúc bây giờ lại chảy
Bong bóng mưa và những con cá nhảy
Tôm búng càng kỷ niệm mãi ngân rung...

Ðã cắt đến hàng rào cuối cùng.
Các đồng chí ơi, xung phong!
Người cắt dây thép gai đã cắt xong
Ðứng dậy nghe đất nước núi sông mình
bao năm cắt chia đang liền lại.

                             1971

Có thể bạn quan tâm