Theo thống kê, vùng Tây Nguyên là nơi sản xuất cây dâu tằm lớn với diện tích hơn 10 nghìn ha, chiếm 76,16% diện tích cả nước. Nghề trồng dâu, nuôi tằm đã và đang giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho nhiều hộ dân vùng nông thôn.
Phục vụ tốt nhu cầu tiêu thụ trong nước và thế giới
Hiện nay, cả nước có khoảng 50 hợp tác xã chuyên về tơ tằm, tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng; khoảng 56 doanh nghiệp, 170 tổ hợp tác và 300 nghìn hộ tham gia sản xuất, kinh doanh xuất khẩu tơ tằm.
Qua thống kê, trên địa bàn cả nước hiện có khoảng 50 cơ sở ươm tơ, dệt lụa, trong đó 35 cơ sở ươm tơ tự động và 15 cơ sở dệt lụa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã và đang tích cực đổi mới công nghệ ươm tơ nên chất lượng tơ ngày càng được nâng cao, phục vụ tốt nhu cầu tiêu thụ trong nước và thế giới.
Cả nước có 5 làng nghề ươm tơ, dệt lụa nổi tiếng như: tơ lụa Vạn Phúc (Hà Nội), tơ lụa Duy Xuyên, tơ lụa Mã Châu (Quảng Nam), tơ lụa Nha Xá (Hà Nam) và tơ lụa Tân Châu (An Giang).
Qua thống kê, trên địa bàn cả nước hiện có khoảng 50 cơ sở ươm tơ, dệt lụa, trong đó 35 cơ sở ươm tơ tự động và 15 cơ sở dệt lụa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã và đang tích cực đổi mới công nghệ ươm tơ nên chất lượng tơ ngày càng được nâng cao, phục vụ tốt nhu cầu tiêu thụ trong nước và thế giới.
Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông (Hà Nội) được hình thành và phát triển từ năm 868 đến nay. Hiện nay, làng nghề dệt lụa Vạn Phúc vẫn đang tiếp tục duy trì, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh vải lụa tơ tằm theo truyền thống với 284 cơ sở và khoảng 1.500 lao động tham gia; thu nhập bình quân của người lao động tại làng nghề khoảng 8 triệu đồng/tháng.
Hiện nay, sản lượng kén cả nước đạt hơn 16.800 tấn/năm, sản lượng tơ khoảng 2.000 tấn/năm. Việt Nam hiện đứng thứ ba trên thế giới về sản lượng tơ, giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt 70 triệu USD/năm.
Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông quốc gia) Nguyễn Doãn Hùng
Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, quy trình công nghệ hiện nay đang được tự động hóa từ khâu xử lý kén, ươm tơ, dệt và nhuộm lụa. Trong đó, một số doanh nghiệp có quy trình hiện đại ở Lâm Đồng như: Công ty cổ phần Tơ lụa Bảo Lộc, Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu dâu tằm tơ; Công ty TNHH dệt Tơ tằm Việt Silk…
Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông quốc gia) Nguyễn Doãn Hùng cho biết: “Hiện nay, sản lượng kén cả nước đạt hơn 16.800 tấn/năm, sản lượng tơ khoảng 2.000 tấn/năm. Việt Nam hiện đứng thứ ba trên thế giới về sản lượng tơ, giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt 70 triệu USD/năm”.
Nhiều mô hình sản xuất hiệu quả
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, qua thống kê năm 2022 năng suất dâu nước ta đạt từ 20 đến 25 tấn/ha, sản lượng dâu đạt 252.000 tấn. Thời gian gần đây, bình quân hằng năm sản lượng tơ đạt khoảng 1.532 tấn, sản lượng lụa 5,5 triệu mét. Một số địa phương có hợp tác xã tơ tằm quy mô lớn và được liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Điển hình như tại tỉnh Lâm Đồng có Hợp tác xã dâu tằm Đạ M’rông, huyện Đam Rông với 93ha trồng dâu, khoảng 200 hộ dân tham gia (phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số), thu nhập bình quân đạt từ 200 đến 300 triệu đồng/ha/năm.
Bình quân một tuần, Hợp tác xã Nông nghiệp Dâu tằm công nghệ cao Đồng Tiến thu hoạch từ 2 đến 3 tạ kén, giá bán từ 18 đến 20 triệu đồng/tạ, mỗi năm cho thu nhập từ 1,5 đến 2,4 tỷ đồng.
Tổ hợp tác Dâu tằm tơ Thái Sơn, xã Lộc Tân, huyện Bảo Lâm, thành lập từ 2018 đến nay với gần 300 tổ viên trồng dâu, nuôi tằm trên diện tích 250ha. Trong đó, phần lớn tổ viên tham gia tổ hợp tác là đồng bào dân tộc thiểu số, thu nhập bình quân đạt từ 150 đến 200 triệu đồng/ha/năm.
Chất lượng sản phẩm tơ ở Lâm Đồng ngày càng được nâng lên. (Ảnh: Văn Bảo) |
Còn tại tỉnh Nghệ An, Hợp tác xã Nông nghiệp Dâu tằm công nghệ cao Đồng Tiến, huyện Nam Đàn được thành lập từ năm 2020 với 7 thành viên. Để phục vụ sản xuất, hợp tác xã thuê 16ha đất sản xuất kém hiệu quả, chuyển sang trồng dâu, nuôi tằm.
Hợp tác xã đã mạnh dạn đầu tư, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng cây dâu giống cao sản thay thế giống cũ năng suất kém... Bình quân một tuần, Hợp tác xã thu hoạch từ 2 đến 3 tạ kén, giá bán từ 18 đến 20 triệu đồng/tạ, mỗi năm cho thu nhập từ 1,5 đến 2,4 tỷ đồng.
Trồng dâu nuôi tằm là một nghề truyền thống lâu đời ở Việt Nam. Cả nước hiện có 38.076 hộ với hơn 101.705 nông dân làm nghề trồng dâu nuôi tằm trải dài từ bắc vào nam.
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương Lê Hồng Vân
Trên địa bàn huyện Bảo Yên (Lào Cai), vùng sản xuất dâu tằm có diện tích 240ha với 600 hộ tham gia, tập trung tại các xã Minh Tân, Việt Tiến, Nghĩa Đô, Cam Cọn, Kim Sơn... đem lại thu nhập khoảng 200 triệu đồng/ha/năm cho người dân. Trong thời gian tới, huyện Bảo Yên chọn cây dâu là 1 trong 4 loại cây trồng chủ lực để phát triển.
Hàng trăm nghìn lao động có việc làm ổn định
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương Lê Hồng Vân, cho biết: “Trồng dâu nuôi tằm là một nghề truyền thống lâu đời ở Việt Nam. Cả nước hiện có 38.076 hộ với hơn 101.705 nông dân làm nghề trồng dâu nuôi tằm trải dài từ bắc vào nam”.
Hết năm 2022, cả nước có 32 địa phương phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm với diện tích khoảng 13.210ha. Chủ tịch Hiệp hội Dâu tằm tơ Việt Nam Lê Quang Tú cho rằng: “Nghề trồng dâu, nuôi tằm có nhiều ưu điểm như: mức đầu tư không nhiều, nhanh có thu nhập và hiệu quả kinh tế cao; thu hút nhiều lao động ở mọi lứa tuổi và trình độ văn hóa”.
Hơn nữa, cây dâu không kén đất nên không tranh chấp diện tích với cây trồng khác; thị trường tiêu thụ sản phẩm tơ tằm trong nước và thế giới tương đối ổn định, giá tơ, kén và các sản phẩm phụ liên tục tăng cao.
Nghề trồng dâu, nuôi tằm có nhiều ưu điểm như: mức đầu tư không nhiều, nhanh có thu nhập và hiệu quả kinh tế cao; thu hút nhiều lao động ở mọi lứa tuổi và trình độ văn hóa.
Chủ tịch Hiệp hội Dâu tằm tơ Việt Nam Lê Quang Tú
Những năm gần đây do thu nhập từ dâu tằm khá lên, một số nơi đã hình thành những vùng sản xuất diện tích lớn, sản lượng kén cao như: Yên Bái, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn La, Thanh Hóa, nhất là các tỉnh như: Đắk Nông, Gia Lai, Đồng Nai”.
Giai đoạn 2014-2022, ngành dâu tằm ở Lâm Đồng khôi phục và phát triển về diện tích, năng suất và sản lượng; chất lượng kén nguyên liệu cơ bản đáp ứng được yêu cầu ươm tơ cho nhu cầu nội tiêu và xuất khẩu.
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Lâm Đồng Trần Văn Tuận cho biết: “Đến hết năm 2022, diện tích trồng dâu trên địa bàn đạt 9.882ha với hơn 15.000 hộ tham gia trồng dâu, nuôi tằm. Từ năm 2011 trở lại đây, giá tơ lụa thế giới bắt đầu có xu hướng phục hồi, cộng với uy tín, chất lượng sản phẩm tơ, lụa Việt Nam nói chung và tỉnh Lâm Đồng nói riêng ngày càng nâng cao, được các thị trường nước ngoài ưa chuộng đã đưa ngành dâu tằm tơ của tỉnh khôi phục và phát triển”.
Đặc biệt giai đoạn 2014-2022, ngành dâu tằm ở Lâm Đồng khôi phục và phát triển về diện tích, năng suất và sản lượng; chất lượng kén nguyên liệu cơ bản đáp ứng được yêu cầu ươm tơ cho nhu cầu nội tiêu và xuất khẩu.
Từ đó, sản xuất dâu tằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và khuyến khích người nông dân chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng dâu, nuôi tằm và ngành nghề công nghiệp ươm tơ dệt lụa cũng được khôi phục, phát triển, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng.
Thiếu liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Cục Trồng trọt cho rằng, diện tích trồng dâu tằm hiện nay manh mún, phát triển chưa theo quy hoạch, thiếu khoa học; các cơ sở sản xuất chủ yếu quan tâm đến sản phẩm kén, ít chú trọng đến đầu tư thâm canh sản xuất dâu và kỹ thuật nuôi tằm. Người nông dân sản xuất chạy theo phong trào, khi giá tơ kén cao mở rộng diện tích, khi giá xuống lại chuyển đổi sang các cây trồng khác…
Sản xuất dâu tằm tơ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh: Văn Bảo) |
Tại làng nghề dệt lụa Vạn Phúc (Hà Nội), đến nay, nguồn nguyên liệu cho đã cơ bản ổn định, chất lượng vải lụa tơ tằm được bảo đảm. Nhưng do nhu cầu sản phẩm tơ các loại rất lớn, khoảng 360 đến 480 tấn/năm.
Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu tơ tằm để phục vụ sản xuất phải mua, thu gom ở các vùng nguyên liệu khá xa. Bên cạnh đó, nguyên liệu chỉ sản xuất được theo mùa vụ và phụ thuộc thời tiết, khí hậu. Để duy trì sản xuất thường xuyên các cơ sở phải dự trữ nguyên liệu, vì vậy cần kinh phí lớn, trong khi các cơ sở sản xuất chủ yếu là hộ kinh doanh, vốn hạn hẹp.
Còn theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, việc đầu tư nghiên cứu và sản xuất trứng tằm trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng để phục vụ sản xuất; trứng giống tằm sử dụng chủ yếu được nhập từ Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch với 95%, cho nên chưa được kiểm soát chất lượng và nguồn gốc.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước đối với việc sản xuất, kinh doanh trứng giống tằm còn nhiều hạn chế. Mặt khác, kỹ thuật chăn nuôi tằm còn nhiều hạn chế; nhiều hộ chưa đủ kinh phí đầu tư vào hệ thống nuôi theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, mà chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệm nên tằm dễ chết, sản lượng kén thấp.
Tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm dâu tằm tơ chủ yếu là tự phát; các địa phương chưa quy hoạch để hình thành các vùng nguyên liệu gắn với tổ chức sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Để phát triển bền vững nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa Việt Nam, đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho rằng thời gian tới, các địa phương cần quan tâm đầu tư có trọng điểm vào vùng nguyên liệu trồng dâu, nuôi tằm lấy tơ và công nghệ sản xuất vải lụa, mang lại giá trị kinh tế lớn để hình thành ngành công nghiệp chế biến tơ tằm tiên tiến.
Đồng thời, xây dựng liên kết tổ chức sản xuất, tiêu thụ và chuyển giao công nghệ trong chuỗi. Trên cơ sở đó, các tỉnh có vùng nguyên liệu sản xuất tơ tằm hiện có cần tập trung xây dựng các mô hình liên kết hợp tác xã, tổ hợp tác với các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ tơ tằm.
Từ đó, bảo đảm sự ổn định, đủ nguyên liệu tơ tằm cho sản xuất lụa và xuất khẩu. Cùng với đó, cần xây dựng thương hiệu tơ lụa Việt Nam, tổ chức quảng bá, giới thiệu sản phẩm gắn với du lịch…