Theo như cách nói của ông, phải "ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà" với già làng, với đồng bào, phải sống như một người con của buôn làng, của núi rừng thì mới hiểu thấu được cái tuyệt vời ẩn chứa ở trong lòng Tây Nguyên từ bao đời. Đôi nét chấm phá qua cuộc gặp gỡ dưới đây chỉ mới hé lộ phần nào về một con người hết lòng, tâm huyết với Tây Nguyên.
Duyên nợ với Tây Nguyên
+ Bước chân ông "chạm" vào Tây Nguyên không nằm ngoài mục đích nghiên cứu văn hóa dân gian (VHDG)?
- Từ những năm 1978- 1979 tôi đã có dịp tiếp xúc với VHDG các dân tộc Tây Nguyên. Với vai trò là nhà nghiên cứu, tôi đề xuất với các đồng chí lãnh đạo tỉnh và ngành văn hóa ở đây tiến hành sưu tầm VHDG các dân tộc Tây Nguyên theo phương pháp tiếp cận đa ngành, nhằm đáp ứng cho đặc trưng tổng thể nguyên hợp của đối tượng nghiên cứu.
Tôi và các cộng sự chọn nhóm Bahnar Tlô làm điểm chính, đồng thời tham khảo thêm các nhóm khác như Bahnar Bnâm và Bahnar Kon Kđeh...
Kết quả đợt công tác dài ngày ấy (vào cuối năm 1979), đoàn nghiên cứu và sưu tầm của Viện Nghiên cứu Lý luận và Lịch sử văn hóa và nghệ thuật đã có gần 2.000 trang ghi chép, vài trăm ảnh trắng đen và băng ghi âm ghi lại nhiều tập tục lễ hội của người bản xứ. Điều lý thú là đợt đó đoàn chúng tôi phát hiện được người Bahnar cũng có một hình thức văn nghệ dân gian tương tự như Khan (sử thi) của người Êđê. Và người Bahnar gọi đó là Hamon. Chúng tôi rất vui mừng là "những viên ngọc sáng" đó đã được đưa ra khỏi lớp bụi thời gian và sự quên lãng!
+ Có được thành công bước đầu, cộng với sự trải nghiệm của mình, ông có thể cho biết, muốn có kết quả khả quan trong công tác sưu tầm, nghiên cứu VHDG cần phải vận dụng...?
- Cần sự đam mê, lòng nhiệt huyết. Ngoài ra, trong công việc của chúng tôi, nếu không có sự giúp đỡ của các già làng, đặc biệt là các nghệ nhân dân gian thì không thể gặt hái được gì. Họ thật sự là mạch nguồn văn hóa bản địa quý giá và đáng trân trọng.
Tiếc thay từ góc nhìn này, đã từ rất lâu chúng ta thiếu sự quan tâm đúng mức. Những già làng, những nghệ nhân dân gian ấy là "lịch sử sống", là người lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng.
+ Ông cho biết đôi nét về văn hóa cồng chiêng các nước Đông Nam Á và của Tây Nguyên?
- Cồng chiêng là di sản chung của cả vùng. Indonesia có đàn Gamelan gồm hàng trăm cái chiêng cồng. Cư dân các đảo của Philippines cũng sử dụng cồng chiêng. Tuy nhiên, theo nhà dân tộc học- âm nhạc GS Jose Marceda ở Philippines thì: "Có một nền văn hóa cồng chiêng Đông Nam Á cổ đại trong đó Tây Nguyên và Trường Sơn là nơi còn giữ được những phẩm chất điển hình nhất của loại hình văn hóa này".
Phải giữ gìn cồng chiêng ở thế sống động
+ UNESCO công nhận "Cồng chiêng Tây Nguyên " là "Kiệt tác di sản văn hóa truyền miệng và phi vật thể của nhân loại", nhưng giá trị về văn hóa cồng chiêng đang mai một dần, thế thì làm sao có thể bảo tồn được?
- Tuy là thành tố của các hoạt động văn hóa và tâm linh trước đây, nhưng mỗi bài cồng chiêng còn là một tác phẩm âm nhạc dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Theo quan sát của tôi, cồng chiêng có thể tồn tại và được bảo tồn, phát huy trong những dạng sau đây:
Ở một số dân tộc, đồng bào vẫn duy trì một số nghi lễ lớn như ăn trâu, bỏ mả, cưới xin, tang ma. Đây là môi trường văn hóa cổ truyền của cồng chiêng nên việc giữ gìn hầu như không gặp khó khăn gì.
Ở những dân tộc không còn thực hành những nghi lễ cổ truyền nữa thì nhân dân sử dụng cồng chiêng trong các sinh hoạt ca nhạc. Đó là cách chúng ta có thể giữ được. UNESCO cũng yêu cầu chúng ta giữ tác phẩm âm nhạc cồng chiêng nguyên dạng là chủ yếu. Họ cũng hiểu là không thể giữ mãi ăn trâu, bỏ mả... được. Nếu giữ được thì quá tốt, nhưng ít nhất phải giữ được nguyên dạng bản nhạc đó.
+ Đứng trước thách thức như vậy chẳng lẽ chúng ta đứng nhìn...?
- Chúng ta đã và đang không đứng nhìn. Chúng ta đã chặn đứng được vụ "chảy máu cồng chiêng". Nay cồng chiêng Tây Nguyên được nhận danh hiệu "Kiệt tác" , tất cả chúng ta lại càng thấy có trách nhiệm nặng nề hơn.
Kinh nghiệm từ trường hợp của Nhã nhạc cho thấy một khi mọi cơ quan hữu trách, mọi người trong xã hội đã nhận thức được tầm quan trọng và giá trị đích thực của cồng chiêng thì họ sẽ cùng nhau chia sẻ trách nhiệm bảo vệ vốn di sản quý báu này.
+ Theo quan điểm của ông, để cồng chiêng "sống mãi", cần phải...?
- Các bạn nên nhớ, giữ gìn cồng chiêng là phải giữ ở thế sống động, chứ không phải chỉ trưng bày trong bảo tàng. Giữ trong bảo tàng đã tốt lắm rồi nhưng văn hóa vốn là vật thể động.
Văn hóa không nằm im trong bảo tàng đâu. Như thế chưa phải là văn hóa đúng nghĩa. Cho nên phải trao, truyền lại vốn đó cho dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Ai bảo thanh niên lơ là với VHDG?
+ Không ít ý kiến cho rằng, hiện nay, thanh niên "lơ là với VHDG", nhìn nhận của ông thế nào?
- Cách đây 4 - 5 năm ít ai biết Nhã nhạc là gì nhưng bây giờ toàn dân biết Nhã nhạc. Cũng có thể người ta không thích, không chơi Nhã nhạc nhưng mọi người đều hiểu đó là của quý.
Tôi báo tin để anh mừng, vừa rồi chiêu sinh lớp Nhã nhạc, chỉ tiêu chỉ lấy 20 suất, thế mà có đến 66 người đăng ký. Các cháu, phần lớn còn nhỏ tuổi (16=20), rất thông minh.
Nói như thế để thấy, thanh niên không phải không thích truyền thống. Rất thích là đằng khác nhưng vì chúng ta không giải thích cho họ hiểu mà thôi.
Người Tây Nguyên cũng thế. Một số người bảo thanh niên Tây Nguyên không thích cồng chiêng. Ngày xưa vì có lễ ăn trâu, bỏ mả... thường được tổ chức trong đời sống cộng đồng. Họ học ngay chính tại đó. Còn bây giờ có ai dạy họ đâu? Cho nên Nhà nước phải đầu tư, tổ chức sinh hoạt lễ hội thường xuyên, tổ chức các lớp tập huấn cồng chiêng ngay trong các buôn làng, động viên các nghệ nhân truyền dạy cho lớp trẻ, tổ chức các kỳ thi, kỳ liên hoan cồng chiêng v.v...
Đồng thời phải dừng ngay việc khuyến khích "cải tiến-nâng cao" cồng chiêng nhân danh "phát triển", "hiện đại hóa", "khoa học hóa" mà thực chất là đánh mất cồng chiêng dân tộc để thay vào đó một cái xa lạ với văn hóa dân tộc theo kiểu lai căng.
+ Mỗi dân tộc có mỗi loại hình chiêng khác nhau, việc bảo vệ chắc gặp không ít trở ngại?
- Không khó gì cả. Sở VH-TT nào cũng đã nắm đầy đủ các số liệu. Thế thì chỉ có việc lên kế hoạch cụ thể, đầu tư một ít tiền: dạy thanh niên; tổ chức lễ hội, các cuộc thi tài. Tôi bảo đảm phong trào sẽ lên rần rần. Tôi tin đồng bào, họ không bỏ cồng chiêng đâu. Ngày nay, khi họ hiểu rằng đó là "Kiệt tác" tầm cỡ thế giới thì họ lại càng có ý thức giữ gìn hơn.
Và, xin nhắc lại một lần nữa, xin làm ơn bỏ cái thói coi thường, nhìn nhận đánh giá cồng chiêng là "lạc hậu, lỗi thời" để rồi khuyến khích nhân dân "cải tiến-nâng cao" theo thói chuộng ngoại của mình.
+ Nghĩa là mức độ "quan tâm" của các ngành chức năng về VHDG nói chung, cồng chiêng nói riêng còn mờ nhạt, nên...?
- Cần phải thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo chí để làm cho mọi người, mọi cấp hiểu rõ hơn, sâu hơn về giá trị nhiều mặt của cồng chiêng Tây Nguyên.
Đã có lần tôi phát biểu trên báo rằng "Ước gì có một MTV cho cồng chiêng" trên truyền hình. Nói rõ hơn là tôi mong có hẳn một chương trình vừa có tính khoa học giáo dục lại vừa giải thích có tính giải trí trên truyền hình về các loại hình văn hóa cổ truyền nói chung trong đó có cồng chiêng, có Ca trù, có Quan họ v.v... với sự cộng tác của các nhà khoa học hay các nghệ nhân, chứ không phải những chương trình tuy mang tên là văn hóa cổ truyền, nhưng lại chứa đầy những cái đã "cải tiến theo mẫu hình phương Tây".
Tôi tự hỏi tại sao chúng ta có chương trình MTV hàng tuần, lại có cả MTV tháng, lại công bố cả top-ten và gần đây chúng ta cũng làm cách này với bài hát Việt, mà lại không có một chương trình chuyên đề cho văn hóa và âm nhạc cổ truyền (thứ thiệt, thứ "gin") được? Liệu có phải chúng ta mắc cái nhìn "bụt chùa nhà không thiêng". hay ta coi đó là những cái "lỗi thời"?
+ Đứng về góc nhìn của một nhà nghiên cứu, sưu tầm VHDG, theo ông "lỗ hổng" của chúng ta trong việc bảo tồn các giá trị VHDG nói chung, trong đó có VHDG Tây Nguyên?
- Đảng và Nhà nước luôn quan tâm sâu sắc văn hóa dân tộc. So với nhiều nước trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta là một nhà cầm quyền đã đề cao chủ trương bảo vệ văn hóa dân tộc. Chúng ta cũng là một trong những nước thực hiện tốt việc bảo vệ tính đa dạng văn hóa. Chúng ta có bình đẳng văn hóa giữa các dân tộc.
Tuy nhiên, chính sách của Đảng, Nhà nước là vậy, nhưng chúng ta thực hiện như thế nào lại là chuyện khác. Chúng ta có nhiều cố gắng, nhưng cũng đã nhận ra những thiếu sót như đã điểm qua ở trên và chắc chắn chúng sẽ được khắc phục trong một tương lai gần.
+ Xin cảm ơn ông!