Là bởi, ranh giới giữa hai mùa chẳng có gì rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bởi ngọn gió khẽ khàng, màn sương mù mỏng manh, chút nắng vàng hanh hao. Nếu mỗi mùa có một dáng vóc, mùi vị, mầu sắc riêng, không thể lẫn được, thì mùa thu được vẽ bởi mầu vàng pha trộn từ mầu lá rụng, mầu rơm rạ vừa gặt, mầu nắng mỡ gà và mầu chuối trứng cuốc. Sắc thu vàng nhuộm khắp đất trời như thếp vàng dát mỏng. Dường như xóa nhòa mọi ranh giới giữa làng xóm với phố phường, nông thôn với thành thị...
Khi mà thành phố dang rộng vòng tay, ôm vào lòng làng quê đồng ruộng, là ôm cả những làng nghề, những con người lao động chân tay, lam lũ, cực nhọc cùng những thiếu thốn mọi bề. Tức là thành phố, không chỉ phả cái hơi thở thành thị, nếp sống phố phường, mà còn phải nâng cấp, lên đời những phận người. Không chỉ bê-tông hóa đường làng, ngói hóa những mái nhà hay mắc điện, dẫn nước máy tới từng nhà, mà còn chắt lọc, giữ lấy nếp làng, nếp sống tình làng nghĩa xóm, "tắt lửa tối đèn có nhau". Mấy trăm năm, bao đời người mới xây cất nên "đất lề, quê thói", nhất là những làng nghề đã nuôi sống bao người từ đời này sang đời khác. Thế mà, chỉ dăm năm nay, hình như tất cả đã bị xóa nhòa, xóa sạch. Ngay cả khi bước qua cái lằn ngăn cách làng và phố, vượt qua không gian vốn rất cách biệt, cũng không thể cảm nhận thấy đâu là nếp làng, nếp phố. Ðâu là người quê, người tỉnh. Cũng lũ lượt ô-tô, xe máy. Cũng san sát cửa hàng quần áo thời trang, tiệm làm đầu, cắt tóc, cửa hàng điện thoại di động, quán in-tơ-nét, trò chơi điện tử. Rồi la liệt quán cơm, phở, nước giải khát, cà-phê, sinh tố...
Không thể nhận ra mảnh đất này, mới cách đây ngót chục năm vốn là địa danh nức tiếng nằm kề bên nhau ven dòng sông một thời xa xưa thuyền bè ngược xuôi tấp nập. Ðấy là một vùng đất ven đô, thuần nông chuyên trồng rau củ, nuôi cá, lợn, gà. Ðất này xưa có nghề muối dưa cà nổi tiếng, đến mức đi vào ca dao, tục ngữ. Ðồng ruộng chiêm trũng, quanh năm tràn trề nước còn cho người dân một đặc sản "độc nhất vô nhị": cà cuống cay. Thuở ấy, vào ngày vụ hằng năm trai làng, đàn ông, lão nông kéo nhau đi đánh dậm cà cuống. Hương vị cà cuống cay thơm nức một thời ở Hà thành cổ kính, giờ không còn vương lại một chút hương gì. Cũng là bởi thuốc trừ sâu đã diệt trừ tất cả. May còn sót lại một loại sinh vật nhỏ bé của ruộng đồng. Ấy là giống ếch nhái, nhưng cũng chỉ lay lắt một góc làng. Với những người dân sống bám làng, bám ruộng, suốt mấy chục năm, chung thủy và tận tình phục vụ thực khách các món chả nhái đã trở thành một "thương hiệu". Mà chẳng nơi nào cạnh tranh nổi. Hương vị đồng ruộng ven đô, nhiều khi thật nhỏ nhoi, dễ lọt thỏm, dễ tan biến và dễ quên lãng, giữa tốc độ đô thị hóa quá nhanh, tràn theo những làn sóng ẩm thực nhập ngoại như nước lũ. Ngoi ngóp, nổi chìm giữa những con sóng ấy, có những con người chân quê chịu thương, chịu khó, một nắng hai sương cố bấu víu lấy nghề tổ tiên, cha ông để lại. Như bám chặt lấy cái phao cứu sinh, như cố giữ lấy chút hương đồng, gió nội. Vào tiết giữa thu, rậm rịch nhịp chày giã cốm, âm vang từ xẩm tối tới mờ sáng. Già, trẻ mải miết tuốt lúa. Thanh niên vác những bao lúa nếp cái hoa vàng đổ vào bể, xối nước, rửa sạch bụi đất và vớt những hạt lép nổi bềnh. Ngoài sân bổ củi, trong bếp nhóm lò. Rang cốm thì lửa trong lò không thể để lúc nào cũng rừng rực như luộc bánh chưng, bánh giò. Lửa lúc to, lúc nhỏ, khi tăng, khi giảm. Tất cả tùy ở cữ tay người, ở mắt nhìn mầu lửa, ở độ cảm nhận bàn tay khi rang cốm. Chảo phải đúc bằng gang nguyên chất, lửa từ củi gỗ chứ tuyệt nhiên không được dùng than đá như lò rèn hay lò đúc. Nếu không, hạt cốm sẽ "ngậm" mùi... công nghiệp. Cũng vậy, mọi công đoạn làm ra hạt cốm đều phải tự bàn tay, không máy móc, cơ khí hóa như bây giờ người ta làm giò, chả. Nhất là khi rang cốm. Khói cay xè mắt, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, mồ hôi vã ra như tắm. Nhưng tay vẫn phải đảo không ngừng nghỉ. Cốm vừa chín tới, không "nặng" lửa ngả vàng, cũng không được "non" lửa quá dễ bết dính. Rang được mẻ nào đổ ra là mọi người phải xúm vào hối hả giã. Cối đá chày gỗ, mấy trăm năm nay đang mỏi mòn, thậm thình giã cốm. Trầm ấm, ngân vọng mãi từ đời này sang đời khác. Dai dẳng, lay lắt những người dân quê đắm đuối với nghề.
Một đời cơm áo sống chết với nghề, liệu tồn tại được bao lâu, khi mà những hàng quán, những dịch vụ kinh doanh có thể hái ra tiền nhanh, mà chẳng cần tay nghề? Thử hình dung, những mùa thu mấy chục năm sau, không còn tìm đâu ra những hạt cốm xanh như ngọc, dẻo thơm mùi lúa chín, gói trong tàu lá khoai xanh nức, bọc ngoài lá sen ngát thơm cả bàn tay. Thử hình dung mai này, những vườn rau thơm, húng Láng không còn một vạt đất nhỏ ngoi lên sống, có ai còn tiếc nuối mỗi khi đi ngang qua mảnh đất ấy? Cái ngày mai ấy đâu có xa xôi gì, bởi hôm nay đã có thể nhìn thấy. Quá khứ ở ngay trước mắt, khỏi phải cất công kiếm tìm mỏi mắt. Vẫn còn đó, trong ký ức những người cao tuổi và cứ ngỡ như từ đầu làng cuối xóm, người ta còn nghe dư âm những tiếng búa đục rộn rã ở làng nghề hàn thiếc. Sắt lá, sắt tây cắt, uốn, gò mềm thành đồ chơi trẻ con mùa Trung thu, hay những chiếc đèn dầu hỏa. Không chỉ đồ chơi con trẻ, làng hàn thiếc còn làm ra cả cặp lồng, bi-đông, ô-doa tưới rau, thùng chậu tôn... Làng giờ thành phố, xã đã thành phường, xóm thành tổ dân phố, cụm dân cư. Và dân quê bỗng dưng "hóa thị dân". Ðất đai bị co hẹp, nhường chỗ cho công ty, xí nghiệp. Ðất thổ cư bán đứt cho người tứ xứ. Dân làng cắt từng mảnh đất hoặc một phần đất hương hỏa cha ông, xây nhà tầng kinh doanh, buôn bán. Bộ mặt đã đổi thay, mái đình cong cong, những ngôi chùa thâm nghiêm rêu phong... đang bị nhấn chìm, nuốt chửng dưới những bê-tông, cốt thép, những ngôi nhà kiến trúc hiện đại.
Nếp làng mất dần, nếp sống và nếp nghĩ, cũng mai một dần. Làng lên phố như thế, hầu hết đều từ cái gốc nông dân bền chắc mà đi lên. Cái sự dở dang, nửa quê, nửa tỉnh là đương nhiên. Cái sự đổi thay nhanh quá, chưa kịp chuẩn bị từ trong ý thức, đã ập đến từng nếp nhà, len lách vào ngóc ngách cuộc đời. Lũy tre làng, những hàng rào, bờ giậu mồng tơi, xơ xác không làm sao bao bọc, che chắn được. Cũng phải thôi, luồng gió tươi mới tràn về xua đi cái không khí trì trệ, quẩn quanh trong làng xóm mấy trăm năm nay. Nếp nghĩ, nếp sống phải năng động, hoạt bát lên. Cứ thuần nông, độc canh mãi thì bao giờ rút chân, thoát khỏi ao tù, váng đọng và đói nghèo. Nhưng còn những làng nghề truyền thống, những nghề thủ công cha truyền con nối, thì vứt đi đâu? Ở những góc sâu khuất trong bao ngôi làng lên phố, có thể nhận ra những gương mặt đăm chiêu, ánh mắt thẫn thờ của những ông già bà cả tiếc nuối, xót xa. Còn có ai để truyền nghề, giữ cái nghề cha ông để lại. Có còn không những vườn rau, thửa ruộng, những trái cây đặc sản mang hương vị riêng biệt của một vùng đất? Hay rồi sẽ mất dần, mất hẳn như những làng hoa, làng đào, rặng ổi, tấm lụa, chiếc đèn lồng, cái lồng chim...
Có những ranh giới, có những khoảng cách chênh lệch cần phải xóa bỏ, san cho bằng. Ranh giới giàu - nghèo, thu nhập cao - thấp... Nhưng nếu xóa nhòa cả những bản sắc văn hóa, nếp sống làng quê, tình làng nghĩa xóm, nhất là không còn giữ lại một chút gì hương đồng, gió nội, thì còn nơi nào để trở về? Ðể được hít thở mùi bùn đất, mùi rơm rạ và mùi lam lũ. Ðể lắng nghe tiếng ếch nhái, giun dế đêm mưa rào mùa hạ. Ðể ngắm vầng trăng treo trên cành tre, gió đưa la đà trước ngõ. Níu giữ hương đồng, đâu chỉ cho một đời, mà còn cho trẻ nhỏ biết đến hạt thóc, củ khoai, biết đến con cò lặn lội, con chuồn chuồn chấp chới bờ ao, con chim sáo, chim ri, cu gáy...