Gỡ khó trong tạo việc làm cho người lao động giai đoạn hiện nay

Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, từ cuối tháng 4 và tháng 5, thị trường lao động-việc làm ở nước ta diễn biến khó khăn hơn. Gần 510 nghìn lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm. Vì vậy, rất cần những giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tạo việc làm cho người lao động trong giai đoạn hiện nay.
0:00 / 0:00
0:00
Lao động tìm kiếm thông tin việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội. (Ảnh: Nhật Quang)
Lao động tìm kiếm thông tin việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội. (Ảnh: Nhật Quang)

Thị trường lao động-việc làm diễn biến khó khăn hơn

Thông tin về tình hình lao động-việc làm trong thời gian qua, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, trong quý I/2023, số lao động có việc làm tiếp tục tăng. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm nay ghi nhận ở mức 51,1 triệu người (tăng 1,1 triệu người so cùng kỳ năm trước và tăng 677,9 nghìn người so năm 2019).

Tuy vậy, tại một số địa phương, lao động có việc làm có xu hướng giảm so quý IV/2022. Đó là các địa bàn như: Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,4%, Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 2,6%, Bắc Ninh giảm 0,9%, Bắc Giang giảm 4,5%, Thái Nguyên giảm 2,2%.

Trong bối cảnh kinh tế-xã hội những tháng đầu năm 2023 có chỉ số phát triển kinh tế không được thuận lợi nhưng thị trường lao động vẫn có sự phát triển nhẹ. Điều này có được nhờ sự tăng trưởng ở ngành sử dụng nhiều lao động nhất là thương mại-dịch vụ. Tính linh hoạt của người lao động về việc làm cao, lao động làm việc trong khu vực phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn - đây cũng là đặc tính về lao động-việc làm Việt Nam với 64,6% lao động có việc làm phi chính thức.

Gỡ khó trong tạo việc làm cho người lao động giai đoạn hiện nay ảnh 1
Công nhân Công ty TNHH Pou Yuen Việt Nam. (Ảnh: THẾ ANH)

Diễn biến cuối tháng 4 và tháng 5 về sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp kéo theo vấn đề lao động-việc làm trở nên khó khăn hơn. Điều này thể hiện qua một số dấu hiệu cụ thể.

Trước hết, số doanh nghiệp gặp khó khăn phải cắt giảm lao động là 8.644 doanh nghiệp, chiếm 1% tổng số doanh nghiệp.

Những khó khăn của doanh nghiệp đã tác động mạnh mẽ tới lực lượng lao động. Số lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm là 509.903 người, chiếm tỷ lệ khoảng 3,4% tổng số lao động.

Trong đó, 27,4% là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 72,18% doanh nghiệp ngoài nhà nước; 0,39% doanh nghiệp nhà nước.

66,75% doanh nghiệp thuộc vùng Đông Nam Bộ (chiếm 1,63% tổng số doanh nghiệp của vùng); 12,4% doanh nghiệp thuộc vùng đồng bằng sông Hồng (chiếm 0,4% tổng số doanh nghiệp của vùng); 7,75% doanh nghiệp thuộc vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung (chiếm 0,6% tổng số doanh nghiệp của vùng). Còn lại rải rác ở các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và miền núi phía bắc.

Doanh nghiệp gặp khó khăn thuộc ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử…

Những khó khăn của doanh nghiệp đã tác động mạnh mẽ tới lực lượng lao động. Số lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm là 509.903 người, chiếm tỷ lệ khoảng 3,4% tổng số lao động.

Gỡ khó trong tạo việc làm cho người lao động giai đoạn hiện nay ảnh 2

(Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội)

Cụ thể, số lao động thôi việc, mất việc làm là 279.409 người, chiếm 54,79% lao động bị ảnh hưởng. Trong đó, lao động ngành dệt may là 68.782 người, da giày là 31.653 người, sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 45.075 người.

Số lao động thôi việc, mất việc tập trung ở các tỉnh có khu công nghiệp, khu kinh tế lớn. Đó là: Bình Dương (71.590 người), Đồng Nai (32.450 người), Thành phố Hồ Chí Minh (44.890 người), Bắc Giang (27.500 người), Bắc Ninh (13.990 người), Hải Dương (16.020 người), Hà Nội (46.860 người).

Số lao động phải giảm giờ làm là 195.039 người (chiếm 38,25% lao động bị ảnh hưởng). Trong đó, lao động ngành dệt may là 66.641 người, ngành da giày là 66.133 người, ngành sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 24.848 người, ngành chế biến thủy-hải sản là 5.939 người, ngành chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 5.450 người.

Thống kê cho thấy, 49% số lao động nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp là từ các các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Số lao động bị ngừng việc, nghỉ việc không lương là 17.003 người (chiếm 3,33% lao động bị ảnh hưởng). Trong đó, lao động ngành dệt may là 4.938 người, ngành sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 2.243 người, ngành chế biến thủy-hải sản là 3.138 người, ngành chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 2.232 người.

Số lao động bị tạm hoãn hợp đồng lao động là 8.346 người (chiếm 1,64% lao động bị ảnh hưởng), trong đó nhiều nhất là lao động ngành dệt may là 3.826 người.

Số lao động chưa qua đào tạo (chưa có bằng cấp, chứng chỉ) thôi việc, mất việc nhiều nhất với tỷ lệ 68%.

Tỷ lệ lao động là thợ may, thợ lắp ráp thôi việc, mất việc cao nhất (28% lao động là thợ may, 8% lao động là thợ lắp ráp).

Số lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất thôi việc, mất việc nhiều nhất. Thống kê cho thấy, 49% số lao động nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp là từ các địa bàn này.

Ba nguyên nhân của tình trạng cắt giảm lao động

Cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực lao động-việc làm cũng chỉ ra ba nguyên nhân của tình trạng cắt giảm lao động thời gian gần đây.

Trước hết, các doanh nghiệp thiếu đơn hàng là do kinh tế các nước gặp khó khăn, lạm phát cao, chính sách tiền tệ thắt chặt nên sức mua sụt giảm, đặc biệt là nhu cầu về các mặt hàng thời trang quần áo, giày dép, thiết bị điện tử cá nhân,… Điều này khiến nhiều doanh nghiệp trong nước gặp tình trạng hàng tồn kho nhiều không xuất được, không có đơn hàng mới.

Tiếp nữa, chi phí sản xuất tăng cao khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh được. Hệ lụy tiêu cực của xung đột giữa Nga và Ukraine khiến cho giá năng lượng tăng cao, làm gián đoạn các tuyến thương mại, nguồn cung nguyên liệu, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.

Thêm vào đó, một số thị trường lớn của nước ta đặt ra yêu cầu mới về tiêu chuẩn hàng hóa và có sự thay đổi quan điểm thị hiếu của người tiêu dùng nên các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn để tổ chức, sắp xếp lại hoạt động sản xuất. Trong khi đó, sau thời gian ứng phó với đại dịch Covid-19, nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp không còn đủ để thực hiện.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đánh giá, việc cắt giảm lao động trong các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là vì lý do kinh tế, khó khăn ở việc tìm kiếm, phát triển thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp gặp khó khăn tập trung vào doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo ở một số ngành như dệt may, da giày, sản xuất và lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến gỗ.

Tích cực gỡ khó trong tạo việc làm cho người lao động

Từ thực tế trên đây, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cũng đề xuất một số giải pháp để gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc tạo việc làm cho người lao động hiện nay.

Cơ quan này nhấn mạnh tới sáu nhóm giải pháp cần thực hiện đồng bộ để nâng cao hiệu quả với thị trường lao động-việc làm trong bối cảnh hiện nay.

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế trung gian của thị trường, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động.

Thứ hai, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, sử dụng lao động hiệu quả thông qua các chương trình, đề án, chính sách tín dụng hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động.

Thứ ba, triển khai các giải pháp đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu sử dụng lao động, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ của lao động trong các doanh nghiệp.

Thứ tư, thực hiện các giải pháp để thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh. Các giải pháp cần tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, tìm kiếm đơn hàng mới, giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua việc giảm lãi suất vay, hỗ trợ giảm thuế, giảm các khoản phí, lệ phí phải đóng,…

Thứ năm, thực hiện các giải pháp để hỗ trợ tạo việc làm, kết nối cung-cầu lao động và bảo đảm quyền lợi cho người lao động.

Thứ sáu, thực hiện các giải pháp để nắm bắt, kịp thời ngăn chặn việc người lao động bị lôi kéo, kích động từ bên ngoài gây bất ổn xã hội, ảnh hưởng hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người lao động đang làm việc.