Ghi dấu sự phục hồi của thị trường lao động

Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, các giải pháp điều tiết thị trường lao động, các chính sách hỗ trợ đã giúp thị trường lao động trong nước phục hồi nhanh chóng. Qua đó, đã giúp các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm cơ bản duy trì được lực lượng lao động ổn định, không để gián đoạn, đứt gãy chuỗi cung ứng lao động trong năm 2022.
0:00 / 0:00
0:00
Ghi dấu sự phục hồi của thị trường lao động

Các giải pháp, chính sách hỗ trợ giúp thị trường lao động phục hồi nhanh chóng

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai nhiệm vụ lao động, người có công và xã hội năm 2023 diễn ra ngày 14/1, Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, trong năm qua,toàn ngành đã tích cực, chủ động nghiên cứu, đề xuất với Trung ương, Quốc hội và Chính phủ các biện pháp phục hồi sản xuất và các chính sách an sinh xã hội ngắn hạn và lâu dài. Song hành với đó là sự phối hợp, hỗ trợ có hiệu quả của các cơ quan liên quan, nhất là sự vào cuộc của các địa phương. Qua đó, góp phần làm cho bức tranh kinh tế-xã hội đang khởi sắc trở lại, thị trường lao động phục hồi và bắt đầu tạo lập được sự ổn định.

Ghi dấu sự phục hồi của thị trường lao động ảnh 1

Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung. (Ảnh: Trần Hải)

Cụ thể, trong năm 2022, ngành lao động-thương binh và xã hội đã thực hiện kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.

Trong 3 năm, từ năm 2020 đến hết năm 2022, thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ngân sách nhà nước đã hỗ trợ cho hơn 68,43 triệu lượt người lao động, người dân và hơn 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động. Tổng kinh phí hỗ trợ lên tới gần 104,5 nghìn tỷ đồng. Hình thức chi trả hỗ trợ được thực hiện bằng tiền mặt, hoặc qua các chính sách trực tiếp/gián tiếp.

Chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg đã hỗ trợ gần 5,3 triệu lượt người lao động với kinh phí hơn 3.744,1 tỷ đồng.

Ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và triển khai Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tập trung xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 quy định việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động (sau đây gọi tắt là Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg).

Triển khai thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg, theo báo cáo của 60 tỉnh, thành phố có đối tượng, đến nay, đã hỗ trợ gần 5,3 triệu lượt người lao động với kinh phí hơn 3.744,1 tỷ đồng.

Trong đó, kinh phí hỗ trợ người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp là hơn 3.215,9 tỷ đồng và hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường lao động là hơn 528,2 tỷ đồng.

Nhìn chung, chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg đã đúng trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.

Chính sách bao phủ được hầu hết người lao động có quan hệ lao động đang ở thuê, ở trọ ở khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực kinh tế trọng điểm. Số đối tượng được hỗ trợ bằng 71,8% số dự kiến ban đầu. Từ đó, góp phần phục hồi nhanh thị trường lao động, không để xảy ra tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng lao động.

Công tác tổ chức thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg nhanh chóng, quyết liệt. Hầu hết các tỉnh đã hoàn thành ngay trong tháng 8/2022 (thời gian thực hiện chính sách 5 tháng). Các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể đều phối hợp, tham gia ngay từ ban đầu để hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động tiếp cận được chính sách hỗ trợ của Nhà nước, cũng như phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

Nhiều tỉnh, thành phố đã chủ động trong việc triển khai thực hiện, tạm ứng kinh phí từ các nguồn ngân sách của địa phương để kịp thời chi trả hỗ trợ cho người lao động và hoàn thành giải ngân trước thời hạn.

Bên cạnh đó, 2 tỉnh Tuyên Quang, Ninh Bình dùng nguồn ngân sách địa phương để mở rộng thêm đối tượng được hỗ trợ. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp đã có chính sách riêng để hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, có khu nhà ở miễn phí cho người lao động...

Về công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật, trong năm, có 10 đề án được trình. Cụ thể là: 1 hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi), 4 Nghị định, 3 quyết định của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm quyền 20 thông tư.

Năm 2022

- 3/3 chỉ tiêu Quốc hội giao tại Nghị quyết số 32/2021/QH15 đạt mục tiêu đề ra:

+ Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị là 2,79%;

+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 67%,

+ Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2%.

- 3/3 chỉ tiêu Chính phủ giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP đạt và vượt mục tiêu đề ra:

+ Đưa hơn 142 nghìn người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đạt 158% kế hoạch;

+ Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 38%,

+ Tỷ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt khoảng 31,1%.

(Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội)

Theo nhận định của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, thị trường lao động năm 2022 chứng kiến đà phục hồi nhanh, mạnh mẽ. Thu nhập bình quân của người lao động liên tục tăng, được cải thiện từ quý I đến quý III năm 2022.

Lực lượng lao động, số người đang làm việc, thu nhập bình quân tháng tăng so với năm trước. Công tác giải quyết việc làm gắn với nâng cao thu nhập cho người lao động luôn được chính quyền các địa phương quan tâm.

Tuy nhiên, từ đầu quý IV/2022 đến nay, một số ngành, lĩnh vực xuất hiện những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, duy trì việc làm cho người lao động, nhất là doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may, da giày, chế biến gỗ...

Để kịp thời ổn định tình hình, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 1170/CĐ-TTg ngày 16/12/2022 về các biện pháp ổn định, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, bền vững và chăm lo đời sống người lao động.

Bên cạnh đó, một dấu ấn nổi bật trong lĩnh vực việc làm trong năm qua là thị trường lao động ngoài nước tiếp tục được ổn định và mở rộng, đặc biệt là các thị trường có mức thu nhập và điều kiện lao động tốt. Công tác đào tạo nghề, giáo dục định hướng, nâng cao chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài được tăng cường. Trong năm 2022, cả nước có 142.779 lao động đi làm việc ở nước ngoài (trong đó 48.835 lao động nữ), vượt mục tiêu đề ra của năm là 90 nghìn người.

Ước tính đến hết tháng 12/2022, số người tham gia bảo hiểm xã hội trên cả nước đạt khoảng 17,48 triệu người, bằng khoảng 38% lực lượng lao động trong độ tuổi. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt khoảng 14,33 triệu người, bằng khoảng 31,1% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Hình thành từng bước thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ và hiện đại

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, vẫn còn nhiều thách thức về vấn đề lao động-xã hội phía trước cần phải giải quyết trước mắt trong năm 2023 và thời gian tới.

Trước hết là vấn đề già hóa dân số. Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2038, nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm hơn 20% tổng dân số. Già hóa dân số nhanh sẽ tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề quan trọng như: thị trường lao động, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi...

Bên cạnh đó là sự thay đổi trên thế giới về vấn đề việc làm. Đó chính là vấn đề di cư, di biến động, việc làm có chất lượng và tiền công thỏa đáng.

Ngoài ra, vấn đề việc làm phi chính thức, tỷ trọng lao động trong khu vực phi chính thức vẫn ở mức cao. Phần đông người lao động Việt Nam vẫn phải đang chấp nhận làm các công việc dễ tổn thương.

Theo thống kê, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức của cả nước 6 tháng đầu năm 2022 là 55,9%. Đó là một thử thách đối với hệ thống an sinh xã hội trên các phương diện như: bảo hiểm xã hội, năng suất thấp, khả năng tiếp cận hỗ trợ từ thị trường lao động,...

Người đứng đầu ngành lao động-thương binh và xã hội chia sẻ, với quan điểm cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý mạnh, cách tiếp cận vòng đời với phạm vi tổng quát cho tất cả các nhóm đối tượng, hệ thống chính sách xã hội tích hợp, tăng cường đầu tư vào dịch vụ công chăm sóc dựa vào cộng đồng. Xác định khoảng trống an sinh xã hội với nhóm đối tượng dễ tổn thương, bao gồm lao động phi chính thức, lao động di cư, lao động khu vực dịch vụ xã hội, bảo đảm cách tiếp cận theo quyền, theo công ước cũng như Hiến pháp nước ta.

Trước mắt, năm 2023, ngành lao động-thương binh xã hội nỗ lực tham mưu Chính phủ trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành một nghị quyết về chính sách xã hội giai đoạn 2023-2035, tầm nhìn 2045 với mục tiêu phát triển chính sách toàn diện, bền vững, hiện đại.

Bên cạnh đó, thực hiện sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, hình thành lưới an sinh xã hội theo yêu cầu đổi mới và phát triển, bảo đảm nâng cao khả năng phòng ngừa, chống chịu và khắc phục rủi ro của nhân dân; thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng, nâng cao hiệu quả an ninh, an sinh của người dân, tạo môi trường để mọi người dân đều có cơ hội tham gia đóng góp và thụ hưởng thành quả của phát triển.

Về lâu dài, phải tiếp tục rà soát hoàn thiện toàn bộ khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách để xây dựng và hình thành từng bước thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ và hiện đại, thúc đẩy tăng năng suất lao động từ nền tảng lực lượng nhân lực khoa học-công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia.

Chỉ tiêu cụ thể của năm 2023

a) Chỉ tiêu Quốc hội giao:

1. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68%; trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ khoảng 27,5%.

2. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị dưới 4%.

b) Chỉ tiêu Chính phủ giao

1. Đưa khoảng 110 - 120 nghìn người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

2. Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội khoảng 39-40%.

3. Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 31,5-32%.