Đường sắt là một trong ba đột phá chiến lược cần ưu tiên đầu tư

NDO -

Chiều 1/11, Bộ Giao thông vận tải công bố Quy hoạch mạng lưới đường đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1769/QĐ-TTg ngày 19/10 vừa qua.

Ảnh: VNR.
Ảnh: VNR.

Bộ trưởng Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể nhấn mạnh: Đến thời điểm này, toàn bộ 5 quy hoạch ngành giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng hải và hàng không) đã hoàn thành. Đây là 5 quy hoạch đầu tiên trong tổng số 37 quy hoạch ngành quốc gia. Quy hoạch các lĩnh vực giao thông vận tải là nền tảng để hình thành thêm các quy hoạch khác, như khu vực sản xuất, thương mại, đô thị.

Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định tổng nhu cầu vốn đến năm 2030 khoảng 240 nghìn tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Quy hoạch cũng xác định, đường sắt là một chuyên ngành đặc thù, có vai trò quan trọng trong hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, là một trong ba đột phá chiến lược cần ưu tiên đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt có trọng tâm, trọng điểm, mang tính đột phá trên các hành lang vận tải chính có nhu cầu vận tải lớn; phát huy thế mạnh vận tải hàng hóa, hành khách khối lượng lớn, cự ly từ trung bình đến dài. Tập trung khai thác tối đa năng lực mạng đường sắt hiện có và đầu tư xây dựng một số tuyến đường sắt mới đồng bộ, hiện đại kết nối cảng biển cửa ngõ, các trung tâm kinh tế lớn.

Đồng thời, từng bước đa dạng hóa nguồn lực trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, vận tải đường sắt; tập trung nguồn lực nhà nước đầu tư kết cấu hạ tầng các tuyến đường sắt; tiếp cận huy động nguồn lực của địa phương, đẩy mạnh thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng, thiết bị, phương tiện, kinh doanh đường sắt.

Xây dựng nền tảng để phát triển công nghiệp đường sắt theo hướng hiện đại, đồng bộ với các ngành công nghiệp khác; từng bước tự chủ trong bảo trì, sản xuất một số loại vật tư, trang thiết bị cho lĩnh vực đường sắt; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước chủ động, tích cực liên doanh, chuyển giao công nghệ phát triển công nghiệp đường sắt. Bảo đảm phát triển đồng bộ giữa kết cấu hạ tầng với công nghiệp đường sắt, trình độ khoa học công nghệ và nguồn nhân lực trong nước.

Chủ động đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong xây dựng, quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng đường sắt nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng; sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Theo Quy hoạch, mục tiêu đến năm 2030, khối lượng vận chuyển hàng hóa đường sắt đạt 11,8 triệu tấn, chiếm thị phần khoảng 0,27%; khối lượng vận chuyển hành khách đạt 460 triệu khách, chiếm thị phần khoảng 4,4% (trong đó đường sắt quốc gia 21,5 triệu khách, chiếm thị phần khoảng 1,87%). Khối lượng luân chuyển hàng hóa đạt 7,35 tỷ tấn/km, chiếm thị phần khoảng 1,38%; hành khách 13,8 tỷ khách/km, chiếm thị phần khoảng 3,55% (trong đó, đường sắt quốc gia 8,54 tỷ khách/km, chiếm thị phần khoảng 2,22%).

Thứ trưởng Giao thông vận tải Nguyễn Ngọc Đông cho biết, về kết cấu hạ tầng, sẽ nâng cấp, cải tạo bảo đảm an toàn chạy tàu 7 tuyến đường sắt hiện có với tổng chiều dài 2.440 km; quy hoạch 9 tuyến đường sắt mới với tổng chiều dài 2.362 km, trong đó, ưu tiên đầu tư hai đoạn tuyến đường sắt tốc độ cao bắc - nam (Hà Nội - Vinh, TP Hồ Chí Minh -Nha Trang), ưu tiên xây dựng một số tuyến đường sắt kết nối cảng biển cửa ngõ quốc tế đặc biệt khu vực Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu, kết nối TP Hồ Chí Minh với Cần Thơ, kết nối quốc tế với Trung Quốc, Lào và Campuchia, phù hợp các hiệp định vận tải quốc tế và đồng bộ với tiến độ đầu tư của các nước trong khu vực.

Tầm nhìn đến năm 2050, mạng lưới đường sắt quốc gia được quy hoạch  gồm 25 tuyến với chiều dài 6.354 km, trong đó, hoàn thành tuyến đường sắt tốc độ cao bắc - nam; tiếp tục đầu tư hoàn thành các tuyến đường sắt mới tại khu đầu mối Hà Nội, khu đầu mối TP Hồ Chí Minh, đường sắt kết nối các cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế, kết nối các tỉnh Tây Nguyên, đường sắt ven biển, đường sắt kết nối quốc tế. Duy trì, cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách và hàng hóa.