Đầu tư nước ngoài góp phần chuyển đổi cơ bản của nền kinh tế

NDO - 35 năm qua, đầu tư nước ngoài đã luôn khẳng định được vai trò là khu vực kinh tế năng động, có đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng, phát triển và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam, góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ bản của nền kinh tế. Đồng thời, đầu tư nước ngoài đã tác động tích cực đến cải cách, đổi mới thể chế kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, bộ máy quản lý nhà nước, cải thiện uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
0:00 / 0:00
0:00
Các đại biểu trao đổi tại hội thảo.
Các đại biểu trao đổi tại hội thảo.

Đó là nhận định của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông tại hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ chức với chủ đề: Thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao và thúc đẩy chuyển giao công nghệ diễn ra chiều 7/9 tại Hà Nội.

Hội thảo là sự kiện quan trọng nằm trong chuỗi các hoạt động tổng kết 35 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong năm 2023. Tính đến nay, Việt Nam có 38.084 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 453,26 tỷ USD; vốn thực hiện lũy kế ước đạt gần 287,1 tỷ USD, bằng 63,3% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Riêng trong 8 tháng năm 2023, Việt Nam đã thu hút được 1.924 dự án mới, 830 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư và 22.268 giao dịch góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký gần 18,15 tỷ USD.

Đầu tư nước ngoài góp phần chuyển đổi cơ bản của nền kinh tế ảnh 1

Các đại biểu dự hội thảo.

Để tận dụng lợi thế của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những cơ hội để chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Việt Nam đã xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong các đột phá chiến lược quan trọng nhất với yêu cầu “Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số; phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”.

Trong thời gian qua, việc thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao và thúc đẩy chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực. Việt Nam đã bước đầu đón dòng vốn đầu tư mới trong lĩnh vực công nghệ cao như: Intel, Samsung…

Việc các tập đoàn công nghệ toàn cầu đang đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực sản xuất công nghệ tại Việt Nam, khiến thị trường nội địa đang mở rộng nhanh chóng. Tuy nhiên, để giữ chân được những tập đoàn công nghệ lớn này, ngoài việc giữ ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách ưu đãi thuế, phí, đất đai phù hợp, Việt Nam cần chuẩn bị đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, nhà xưởng, điện, nước và hạ tầng xã hội và nhân lực chất lượng cao nội địa.

Cùng với đó, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng là nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp trong nước cải thiện năng suất, đổi mới công nghệ thông qua áp lực cạnh tranh, áp dụng các mô hình sản xuất mới của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để phát triển và thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa. Các doanh nghiệp trong nước đang từng bước được tham gia vào chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh thành tựu như trên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: mặc dù được đánh giá sử dụng máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng không quá vượt trội so với doanh nghiệp trong nước; chủ yếu ở mức độ hiện đại trung bình, hoặc trung bình tiên tiến của khu vực; việc cập nhật công nghệ, tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và phát triển còn hạn chế; mục tiêu về chuyển giao công nghệ trong thời gian qua chưa đạt được như mong đợi; sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn tới.

Do vậy cần xây dựng chính sách và cơ chế liên kết giữa hai loại hình doanh nghiệp, bao gồm: phát triển công nghiệp hỗ trợ, liên kết theo chuỗi cung ứng sản phẩm, chuyển giao và ứng dụng công nghệ. Các doanh nghiệp trong nước cần chủ động trong việc tìm kiếm các kênh chuyển giao công nghệ thông qua hợp đồng mua phát minh, bản quyền, thương quyền, hợp tác nghiên cứu với cơ quan, tổ chức trong nước, chuyển giao công nghệ thông qua FDI, không bị động trong việc tìm kiếm công nghệ thích hợp với từng doanh nghiệp.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết, thu hút đầu tư nước ngoài được xem là một trong những điểm sáng, là thành tựu nổi bật của Việt Nam kể từ khi thực hiện Chính sách Đổi mới theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Đến nay, thu hút đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần làm gia tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, tạo nhiều công ăn, việc làm cho người dân, đóng góp rất lớn vào nguồn thu ngân sách cho Nhà nước.

Hiện nay, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, lạm phát toàn cầu mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia phát triển có dấu hiệu giảm.

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tiếp tục đẩy mạnh, thu hút hiệu quả đầu tư FDI. Có thể kể đến một số chính sách như: Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017; Luật Đầu tư năm 2020; Quyết định số 29/2021/QĐ-TTg ngày 06/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt...

Các quy định của Đảng, chính sách của Nhà nước được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng toàn diện trong công tác thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài; thu hút các dự án công nghệ cao, công nghệ mới, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã nghe và trao đổi về các vấn đề: Chính sách thúc đẩy phát triển công nghệ cao của Việt Nam, thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào công nghệ cao và một số giải pháp định hướng trong thời gian tới; Chính sách quản lý, thu hút và thực trạng chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI; Đánh giá tác động và lan tỏa và vai trò của FDI; Đánh giá thực trạng và những vướng mắc trong triển khai thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao-đề xuất định hướng, giải pháp; Xu hướng về đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam; Thực trạng đề xuất trong quá trình đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam...

Hội thảo đã đánh giá toàn diện thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao và thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua; định vị vai trò của các doanh nghiệp trong nước khi tiếp nhận các công nghệ mới của doanh nghiệp FDI, những khó khăn, vướng mắc về thực thi chính sách để từ đó khuyến nghị những giải pháp phù hợp chuẩn bị đón dòng vốn đầu tư mới trong lĩnh vực công nghệ cao trong thời gian tới.