Đào Vũ sinh ngày 17-10-1927 tại làng Lưu Xá, huyện Kim Ðộng, tỉnh Hưng Yên. Cụ nội là một thầy đồ Nho có nhiều học trò đỗ đạt. Ông nội rồi ông thân sinh cũng là thầy đồ. Tên cha mẹ đặt cho ông là Ðào Ngọc Thư. Tên trong giấy tờ, do ông hộ lại trong làng đặt cho, khi làm khai sinh lại là Ðào Văn Ðạt. Ðào Vũ là bút danh, do ông ghép họ cha và họ mẹ mà thành.
Thời thuộc Pháp, từ những năm 1940, gia đình ông đã là một cơ sở của Việt Minh. Ngay từ năm 1942-1943, ở tuổi vị thành niên, ông đã tham gia hoạt động bí mật. Năm 1945, ông tham gia thanh niên xã, giành chính quyền ở địa phương và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ở xã.
Ông được kết nạp Ðảng năm 1947.
Từ tháng 4-1957, ông về Tạp chí Văn nghệ, làm biên tập viên. Từ đây cho đến lúc về hưu, ông gắn trọn đời mình với nghề văn. Có khóa ông tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, có thời gian đảm nhiệm chức trách Chánh Văn phòng Hội. Khi làm báo Văn nghệ, ông tham gia nhiều cương vị, từ biên tập viên đến Quyền Tổng biên tập. Ở đâu và với chức trách nào ông cũng có đóng góp tích cực vào việc xây dựng, phát triển đội ngũ nhà văn và không bao giờ rời cây bút. Những tác phẩm của ông trong trọn một đời sáng tác đã góp phần vào sự hình thành nền văn học đương đại của chúng ta.
Ông đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng ba và hạng nhì, Huân chương Ðộc lập hạng nhì và Giải thưởng Nhà nước về văn học năm 2001.
Ðào Vũ là người chăm chỉ, cẩn trọng. Chăm chỉ cẩn trọng trong công việc sự vụ được giao và nhất là chăm chỉ cẩn trọng trong sáng tác. Thói quen ấy đã in dấu vào sự nghiệp ông, tạo nên đặc điểm về khối lượng và chất lượng văn chương ông.
Ðào Vũ viết kịch, bút ký, nhật ký từ năm 1954-1955, khi ông công tác trong ngành văn công, đó là những tập dượt nghề nghiệp buổi đầu đời. Ông thật sự được bạn đọc biết đến từ tập tiểu thuyết Cái sân gạch, xuất bản năm 1959. Ðây là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế dài ngày ở một vùng nông thôn Hải Dương đang sôi nổi phong trào hợp tác hóa. Nhà văn Ðào Vũ đã lao động thật sự như một xã viên hợp tác xã nông nghiệp, đã tham gia sinh hoạt đảng trong chi bộ xã, đã trở thành người bạn tâm tình với lứa thanh niên mới lớn, giúp họ cởi gỡ những thắc mắc trong sản xuất, trong đời sống, trong tình yêu... Sau này, ông cho biết, ông luôn chủ trương trở thành người trong cuộc để viết. Cuốn tiểu thuyết đầu tay này được ghi nhận như thành tựu của đường lối văn nghệ mới sau ngày kháng chiến chống Pháp. Cái sân gạch thành đề tài cho nhiều cuộc hội thảo, nhiều bài nghiên cứu phê bình trên hầu hết báo chí của Hà Nội trong các năm 1959, 1960. Nhân vật trung nông lão Am được coi là một điển hình nông dân dày dặn nhất của vùng đồng bằng Bắc Bộ (Tô Hoài). Sự tiếp nhận nồng nhiệt của xã hội đối với Cái sân gạch đã khích lệ Ðào Vũ đi sâu vào phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Năm 1961 ông xuất bản Vụ lúa chiêm, coi như tập hai của Cái sân gạch. Ðào Vũ, ở tập này tự tin hơn nên phóng khoáng hơn trong sáng tạo các tính cách nhân vật nông dân. Bút pháp hiện thực của Cái sân gạch trở nên lãng mạn và viễn tưởng hơn trong Vụ lúa chiêm. Cuốn sau không gây ảnh hưởng lớn trong bạn đọc như cuốn trước, nhưng tác giả Ðào Vũ, cùng với tập truyện ngắn Lớp tre đang lên, xuất bản cùng năm, đã được ký ức độc giả lưu giữ như một tác giả am hiểu nông thôn giai đoạn ấy.
Năng suất viết của Ðào Vũ rất đáng khâm phục. Hầu như năm nào ông cũng có sách xuất bản, nhiều năm có hai cuốn. Trong hai năm 1973-1974, bộ tiểu thuyết ba tập Lưu lạc, Hoa lửa, Dải lụa ra đời cho thấy khuynh hướng mở rộng dung lượng tiểu thuyết của Ðào Vũ. Ông muốn thể hiện một chặng dài của lịch sử hiện đại qua các thời kỳ thuộc Pháp, kháng chiến và thời hòa bình nửa nước từ một rẻo biên giới Việt Trung.
Ðào Vũ từng quan niệm trang viết cần gắn bó máu thịt với cuộc sống. Và để biểu lộ được tính hiện thực sâu sắc, ông cho rằng, nhà văn nên luôn luôn chọn chỗ mũi nhọn, chỗ sống động, chỗ xung yếu. Ở những chỗ ấy, mọi con người, mọi tính cách, mọi tình cảm được bộc lộ rõ hơn. Và Ðào Vũ đã thực hiện phương sách đó trong cả đời viết của mình. Ông thuộc lứa nhà văn đầu thâm nhập nông thôn để viết phong trào hợp tác xã. Ông tham gia chuyến đi đầu của Hội Nhà văn Việt Nam vào tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh ngay trong những ngày đầu chống chiến tranh phá hoại. Ông có mặt lâu dài trên mũi nhọn giao thông vận tải... Rồi Tây Nguyên, rồi Lào, Cam-pu-chia... Ý thức công dân của người cầm bút là một mục tiêu thường xuyên của đời văn ông. Văn ông, do vậy, đã góp phần tác động kịp thời vào các bước chuyển động của xã hội. Nhân vật Lão Am trong tiểu thuyết Cái sân gạch được nhiều nhà phê bình văn học phân tích và đối chiếu với những tiêu chí tâm lý người trung nông của bộ môn xã hội học, chính trị kinh tế học. Và tác phẩm đó cũng từng được vận dụng như một mô hình thực tế, được bàn bạc, phân tích, rút kinh nghiệm cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp.
Trong nghệ thuật, Ðào Vũ thiên về sự hiền hòa, ngợi ca. Tạng cảm xúc ấy tỏ ra đắc địa khi ông viết cho thiếu nhi. Tập đồng thoại Trăng rơi xuống giếng, viết năm 1961, được Nhà xuất bản Kim Ðồng tái bản nhiều lần. Tập truyện vừa Danh dự chúng em, 1962, được dịch ra tiếng Nga, tiếng Môn-đa-vi. Tập Con voi dữ và chú nài con được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung. Các tập truyện ngắn Cô bé bỗng trở nên xinh đẹp, Ðội cầu gian truân được Nhà xuất bản Giáo dục và UNICEF xuất bản và tái bản tới lần thứ ba.
Ðào Vũ còn có đóng góp trong lĩnh vực dịch thuật. Hồi kháng chiến chống Pháp, hai năm học ở Trung Quốc đã giúp ông vốn hiểu biết khá sớm về nền văn học cách mạng nước bạn. Ông đã tham gia giới thiệu nền văn học đó với công chúng Việt Nam qua bản dịch những văn phẩm của Ngụy Nguy, Mã Phong, Triệu Thụ Lý, Ðinh Linh, Mao Thuẫn, Liễu Thanh...
Vài năm trước đây, ông thoáng qua một cơn mất hẳn nhận biết, người như rơi vào hư vô. Khi kể lại, ông còn đắc chí nói vui về cuộc chu du khoảnh khắc kỳ diệu ấy. Ðùa đấy, nhưng tôi biết ông hiểu rất rõ chẩn đoán của bệnh viện nghi ông có tổn thương não. Năm 2005, ông vượt được một cuộc mổ não. Sau mổ, ông về nhà tĩnh dưỡng. Tôi đến thăm, hình như ông lờ mờ nhận biết. Nụ cười ngơ ngác và ánh nhìn còn dại. Nhưng đã là tiến triển tốt. Nhưng giờ đây, tháng chạp ta đang vào cữ rét đậm, khi các loại báo Tết Bính Tuất đã xuất hiện tưng bừng trên các sạp báo, thì ông lại ra đi. Nhớ lắm hồi ông làm báo Văn Nghệ, những ngày này ông tươi cười mang báo Tết đi biếu, đi... khoe các bài hay của người khác. Nụ cười Ðào Vũ đã thành chân dung ông trong tâm trí bạn viết, bạn đọc.
10-1-2006
Nhà thơ Vũ Quần Phương
--------------------------------