Thanh lịch Tràng An trong ca dao làng nghề

ND - Ai ơi! Ðứng lại mà trông/ Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa... Ấy là câu ca dao làng nghề mà trẻ con vùng Kẻ Bưởi ngày ngày đã thường hò hát từ thuở lên mười. Thời ấy, cả vùng Bưởi xuống đến Cầu Giấy, Cót đều làm nghề giấy, phổ biến nhất là giấy bản, còn dùng cho việc học, giấy dùng cho công sở "việc quan".

Nghề làm giấy sắc, tên gốc là giấy dó (vốn là nghề cổ của dân tộc Dao ở miền núi Việt Bắc và Ðông Bắc nước ta), đến bây giờ vẫn còn. Vỏ dó giã nhừ, bóc lấy phần ruột quẩy ra cối giã dó. Âm thanh tiếng chày khua trong đêm đã đi vào ca dao: Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ. Ðó những tiếng ngày đêm vang động từ Nghĩa Ðô sang Yên Thái đến Hồ Khẩu ven Hồ Tây. Còn: Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa là khi giã dó tơi ra rồi thì quẩy những thúng đại đem ra sông Tô Lịch đãi.

Nghề làm giấy làng Bưởi có từ xa xưa, danh nhân Nguyễn Trãi viết trong Dư địa chí: "Phường Yên Thái, huyện Quảng Ðức làm giấy". Làng Hồ Khẩu, làng An Thái làm giấy bản, làng Ðông Xã làm giấy quỳ, làng Nghĩa Ðô làm giấy sắc. Trong bài "Phú thượng Tây Hồ" Nguyễn Huy Lượng thời Tây Sơn cũng nói về nghề làm giấy rất thơ: Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng/ Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co. Từ cây cỏ, trong môi trường nước và lửa, từng tờ giấy lụa mỏng manh đã ra đời để rồi lưu lại biết bao dấu tích, nét bút tài hoa của những Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Ðoàn Thị Ðiểm... Và hình ảnh cô gái làm giấy vất vả cũng đã trở thành một hình tượng văn học hết sức đẹp đẽ duyên dáng: Người ta bán vạn buôn ngàn/ Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi/ Dám xin ai đó chớ cười/ Vì em làm giấy cho người chép thơ.

Người làng nghề truyền lại rằng, khi xưa con gái Bưởi ra ngoài đường không dám mặc áo cộc tay, bởi vì khi sàng giấy, các cô phải tỳ hai tay vào thành bể, nên bị xây xát thành chai, thành sẹo. Con trai ra ngoài đường, người ta biết ngay là trai Bưởi, vì anh nào đi cũng hơi vẹo một bên. Chẳng là khi gánh nguyên vật liệu làm giấy ở dưới thuyền lên, chỉ bằng một bên vai. Cái vất vả này cũng đã đi vào ca dao:

Giã nay rồi lại giã mai
Ðôi chân tê mỏi, dó ơi vì mày...
Xeo đêm rồi lại xeo ngày
Ðôi tay tê buốt vì mày giấy ơi!

Vất vả vậy mà không ít người đến nay khi nói về một thời tiếng chày Yên Thái vang vọng đêm Hà Thành vẫn không khỏi ngậm ngùi. Họ vẫn tiếc vì đã mất đi một vùng nghề truyền thống. Cái vất vả ấy vẫn được người ta tự hào, vì rằng: Bóng đèn là bóng đèn hoa/ Ai về vùng Bưởi với ta thì về/ Vùng Bưởi có lịch có lề/ Có sông tắm mát cò nghề xeo can. Ngày 1-12-2007, hàng trăm người dân Nghĩa Ðô đã tham gia đám rước Bằng công nhận Di tích quốc gia cho nhà thờ tổ nghề giấy sắc. Ngày nay, công nghệ sản xuất giấy hiện đại đã khiến nghề làm giấy dó cổ truyền của Yên Thái không còn nữa, nhưng làng Yên Thái (làng Bưởi) vẫn còn đó như chứng tích về một vùng quê với nghề giấy dó từng nổi tiếng khi xưa.

Chưa hết. Làng Bưởi xưa còn nổi tiếng với nghề dệt lĩnh. Và nghề này cũng đã in đậm vào trí nhớ mọi người với những câu ca mộc mạc: Nhắn ai trẩy hội Kinh thành/ Mua cho tấm lĩnh hoa chanh đem về. Nhân nhắc đến lĩnh Bưởi không thể không nói thêm rằng, đây là mặt hàng mềm mại, óng mượt, quý phái, quyến rũ, rất nổi tiếng thời bấy giờ. Khi vận vào người, lĩnh Bưởi khiến cho đường nét thân thể người phụ nữ được tôn lên đầy vẻ uyển chuyển. Nhờ phát triển nghề dệt lĩnh, làm giấy, mà những người con làng Bưởi siêng năng học tập, làng nào cũng có người học rộng, đỗ cao, chỉ riêng làng Yên Thái đã có năm vị đỗ tiến sĩ Nho học thời xưa.

Ðọc bài ca dao dưới đây, ta lại hiểu được các nghề thủ công của từng làng thuộc vùng đất phía nam huyện Thanh Trì:

Làng Ðam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng
Ðông Phù cắp thúng đi buôn
Ðông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang...

Ðất lề Kẻ Chợ vốn là nơi lắm người "khéo tay hay nghề" và những đặc sản quý hiếm: "Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Ðịnh Công, thợ đồng Ngũ Xã", hay: "Mực cầu Cậy, giấy làng Hồ", hoặc: "Sù, Gạ thì giỏi chăn tằm, làng La canh cửi, làng Ðăm bơi thuyền"... Chưa kể những làng hoa: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Tân... làm ngẩn ngơ các du khách đến thăm - trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên: Hỏi người xách nước tưới hoa/ Có cho ai được vào ra chốn này. Và ướm lời hò hẹn: Hỡi cô đội nón ba tầm/ Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang/ Phiên rằm cho chính Yên Quang/ Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua...

Bên sự ca ngợi chung còn có ca ngợi riêng, ví như với cô gái Trại làng hoa Ngọc Hà: Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng/ Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm. Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ: Mình từ làng kẹo mình ra/ Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng. Và cả đến gánh rau làng Láng cũng phải: "mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ", một cách ẩn ý đầy tinh tế song không giấu giếm niềm kiêu hãnh:

Ði đâu mà chẳng biết ta
Ta ở kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thì là, cải cúc, đủ mùi hành hoa.
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà
Bí đao, đậu ván vốn nhà trồng nên
Anh giúp em đôi quang tám dẻ cho bền
Mượn người lịch sự gánh lên kinh kỳ.

Cùng với quảng bá đặc sản địa phương, ca dao làng nghề thường khéo léo thể hiện cảnh đẹp, tình cảm và niềm tự hào về quê hương, làng mạc: Thanh Trì có bánh cuốn ngon/ Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng. Rồi: Quê ta đẹp quất Tây Hồ/ Tơ vàng kén mượt đầy bồ Tứ Liên. Hoặc: Giò Chèm ai gói xinh xinh/ Nắm nem làng Vẽ đậm tình quê hương... Những câu ca đã không chỉ gói ghém tất cả thông tin về những làng nghề thủ công nổi tiếng trên đất Kinh kỳ xưa, mà qua đó toát lên rõ nét cái khéo léo, giỏi giang; sự chịu thương chịu khó cùng phẩm chất kín đáo, ý nhị của người làng nghề trên đất Tràng An thanh lịch.

Hà Khoa
(Sưu tầm và tổng hợp)

Có thể bạn quan tâm