32 tỷ đồng cho một dự án chuyển đổi vật nuôi
Từ tháng 10-2004, UBND tỉnh Lâm Ðồng đã ban hành quyết định phê duyệt dự án phát triển chăn nuôi dê trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Mục tiêu mà dự án này hướng tới là đến năm 2010, toàn tỉnh sẽ có 2.000 hộ đồng bào chăn nuôi 40 nghìn con dê và sản lượng thịt sẽ đạt mức 400 nghìn tấn/năm. Dự án còn đặt ra ý nghĩa cao hơn là nhằm "góp phần giải quyết việc làm, cải thiện mức thu nhập cho nhân dân vùng đồng bào DTTS, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội" - như nội dung văn bản của UBND tỉnh quy định.
Theo đó, dự án được tiến hành qua hai giai đoạn: giai đoạn một từ 2004-2006 và giai đoạn hai từ 2007 đến 2010. Tổng nguồn vốn đầu tư cả hai giai đoạn lên tới gần 32 tỷ đồng. Với mục tiêu đã định, dự án chọn đối tượng đầu tư là các hộ DTTS nghèo, diện chính sách nhưng phải có khả năng tiếp thu, phát triển sản xuất. Trên cơ sở đó, xây dựng mô hình chăn nuôi dê theo quy mô hộ gia đình với việc chọn giống là loại dê cỏ và dê cỏ hướng thịt. Hình thức nuôi bán thâm canh và quảng canh cải tiến với quy mô định hình 20 con trên một hộ gia đình và nâng dần quy mô đàn khi đủ các yếu tố cần thiết. Tỉnh chọn phương thức đầu tư trực tiếp ban đầu cho mỗi mô hình (hộ) gồm 50% chi phí chuồng trại và cấp không con giống. Năm 2004, mỗi hộ được đầu tư con giống gồm 10 dê cái sinh sản và một dê đực. Năm 2005, Ban Quản lý dự án tính toán lại, nhằm tăng số lượng hộ được hưởng lợi nên giảm xuống mỗi hộ chỉ được cấp 5 con giống cái và hai hộ sẽ nuôi chung một dê đực giống bách thảo. Sau hai năm, chủ đầu tư sẽ thu hồi lại 80% số dê cái sinh sản từ mỗi hộ này nhằm tiếp tục luân chuyển cho các hộ khác...
Tuy nhiên, dù mới ở giai đoạn đầu triển khai nhưng do sự chuẩn bị và tính toán chưa thật sự thấu đáo, nên dự án chăn nuôi dê trong vùng đồng bào DTTS ở Lâm Ðồng đã phát sinh nhiều khó khăn, ách tắc, cần phải giải quyết, tháo gỡ kịp thời.
Ðàn dê chết hàng loạt, vì sao?
Năm 2004, huyện Bảo Lâm là địa phương đầu tiên được bố trí vốn và triển khai thực hiện dự án này. Theo đó, huyện được đầu tư kinh phí hơn 1,4 tỷ đồng giúp 40 hộ đồng bào DTTS tại ba xã đặc biệt khó khăn là Lộc Bắc, Lộc Bảo và Lộc Lâm chăn nuôi 440 con dê, trong đó có 400 con dê cái sinh sản và 40 con dê đực giống. Sang năm 2005, dự án được mở rộng triển khai trên phạm vi toàn tỉnh, với kế hoạch vốn là 7,45 tỷ đồng để phát triển đàn dê ở 400 hộ gia đình. Ðến nay đã có 7/12 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh được giao dê giống cho người dân chăn nuôi với số lượng 1.310 con, bằng 60% mức kế hoạch. Thế nhưng, điều đáng nói là trong thời gian vừa qua, đàn dê giống của dự án đã chết hàng loạt, tỷ lệ hao hụt trong toàn tỉnh là 23%, có địa phương lên tới 40%. Ðối với đàn dê đầu tư cho huyện Bảo Lâm năm 2004, mặc dù đã qua thời gian "bảo hành" và nuôi "tân đáo", đã thích nghi dần với điều kiện sinh thái nhưng số dê bị chết lên tới 132 con trên tổng đàn 494 con, chiếm gần 30%. Ðàn dê giống đầu tư theo kế hoạch 2005, các đơn vị cung ứng giống đã chuyển giao cho người dân ở 7/12 huyện, thị xã, thành phố đã có tới 305 con trên tổng số 1.310 con bị chết. Trong đó nhiều huyện có tỷ lệ hao hụt đàn dê giống rất cao như Lạc Dương (35%), Ðơn Dương (30%)...
Ðàn dê dự án bị chết hàng loạt, vì sao? Kỹ sư Nguyễn Văn Hào thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Lâm Ðồng, cho rằng: Thời tiết năm nay quá lạnh, lượng mưa lớn và tập trung liên tục vào tháng 7 và 8, độ ẩm không khí cao. Dê là loài động vật rất nhạy cảm với thời tiết bất lợi này, trong khi đàn dê được chăm sóc, nuôi dưỡng, nhất là khâu vệ sinh chuồng trại của nhiều hộ đồng bào chưa tốt. Ðồng thời, đàn dê được nhập cơ học từ ngoài tỉnh vào chưa đủ thời gian thích nghi với điều kiện, môi trường và vùng sinh thái mới. Vì vậy, dê bị chết nhiều do các bệnh thường gặp như viêm đường hô hấp, chướng hơi, tiêu chảy, dòi đục da, đau mắt... ông Hồ Ðình Quảng - Phó Giám đốc Trung tâm nông nghiệp huyện Bảo Lâm thanh minh: "Nuôi dê là một dự án mới, dịch bệnh trên dê cũng là vấn đề mới phát sinh đối với ngành chăn nuôi địa phương. Chính vì vậy, cán bộ chuyên môn của trung tâm vẫn còn lúng túng, khó xác định chính xác bệnh để có biện pháp phòng ngừa và chữa trị hiệu quả".
Qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy, khi tiếp nhận và triển khai dự án chăn nuôi dê, tính chủ động của cả phía cơ quan chức năng và người dân đều thấp. Tại sao biết rõ đặc điểm sinh lý và bệnh lý của dê mà các đơn vị vẫn cho nhập dê giống và phân phối vào giữa mùa mưa? Tại sao khâu kiểm dịch cũng như tiêm phòng dịch bệnh cho dê giống nhập từ tỉnh ngoài vào không được quan tâm và chủ động sớm? Người dân chưa được hướng dẫn kỹ về mặt kỹ thuật và một phần là họ thiếu trách nhiệm, trông chờ, ỷ lại, cho nên chăm sóc, nuôi dưỡng chưa tốt; khi dê mới phát bệnh không chịu báo ngay cho cán bộ thú y cơ sở để xử lý kịp thời...
Giải pháp đã có nhưng chưa hết nỗi lo
Trước tình trạng dê giống chết hàng loạt, UBND tỉnh Lâm Ðồng đã chỉ đạo ngành NN-PTNT cho tạm ngừng việc nhập và phân phối giống đến các địa phương đang chuẩn bị triển khai dự án. Ðồng thời, tỉnh cũng yêu cầu ngành chức năng và các địa phương tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện bệnh đối với đàn dê để có biện pháp chữa trị, không để xảy ra thiệt hại lớn nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và tài sản nhân dân. Thực hiện sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở NN-PTNT Lâm Ðồng đã đề ra một số giải pháp cấp bách nhằm hạn chế những thiệt hại do đàn dê giống bị chết mang lại. Ðồng chí Nguyễn Thị Kim Loan, Phó Giám đốc sở cho biết: "Chúng tôi trực tiếp kiểm tra tình hình thực tế ở các địa phương đã triển khai dự án và thực sự lo lắng bởi sự hao hụt khá lớn của đàn dê giống. Sở đã chỉ đạo các phòng, ban chuyên môn cũng như các chủ đầu tư trực tiếp ở các huyện xác định rõ nguyên nhân và tìm các biện pháp khắc phục hữu hiệu".
Quả đúng là Sở NN-PTNT Lâm Ðồng đã kịp thời đề ra một số giải pháp khắc phục sự cố dê chết nêu trên. Trong đó, việc quan trọng nhất là quyết định tạm ngừng nhập, tiếp nhận và bàn giao dê giống tới các hộ dân trong thời gian này. Sở cũng chỉ đạo các địa phương, trước khi nhận giống từ các đơn vị cung ứng phải thực hiện đầy đủ các quy trình chuyên môn, không xảy ra sơ suất dẫn đến việc tiếp nhận giống mang sẵn mầm bệnh. Ðồng thời, tăng cường hơn nữa công tác thú y, công tác khuyến nông, giám sát và theo dõi sát sao tình hình dịch bệnh, kịp thời hướng dẫn các hộ chăn nuôi thực hiện đúng quy trình kỹ thuật và cách phòng, chống dịch bệnh cho dê...
Những giải pháp nêu trên của ngành NN-PTNT Lâm Ðồng có thể ngăn ngừa phần nào dịch bệnh của dê và nhằm giảm thiểu những thiệt hại ban đầu. Tuy nhiên, đó chỉ là những giải pháp nhìn ở góc độ bước đầu triển khai dự án. Vấn đề khác, quan trọng hơn và nan giải hơn nhiều thì chưa được tính toán một cách đầy đủ và thấu đáo, đó là bài toán đầu ra cho thị trường thịt và các sản phẩm từ dê. Trước khi triển khai dự án này những người có trách nhiệm cũng đã biết rất rõ về sự khó khăn của thị trường thịt và các sản phẩm từ dê trong giai đoạn hiện nay và dự báo trong nhiều năm tới. Hiệu quả kinh tế của việc chăn nuôi dê? Những luận chứng về vấn đề này nêu trong bản dự án đang triển khai là hết sức chung chung, trong đó, đã thừa nhận sự bế tắc về mặt thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khi dự án này chưa triển khai, tổng đàn dê toàn tỉnh Lâm Ðồng là 7.845 con. Ở thời điểm này, số lượng và sản lượng còn thấp mà thị trường cũng đã có phần bão hòa, nhất là trong thời gian gần đây, thị trường thịt dê và giống dê bị rớt giá thê thảm. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long người chăn nuôi dê đang khốn đốn, có nhiều gia đình vỡ nợ hàng trăm triệu đồng vì vay vốn ngân hàng đầu tư chăn nuôi dê. Năm 2006, đàn dê ở Lâm Ðồng sẽ tăng lên 18 nghìn con và năm 2010 sẽ đạt trên 40 nghìn con với sản lượng 400 nghìn tấn thịt/năm. Nếu dự báo và tính toán thiếu thận trọng về thị trường tương lai, khi Lâm Ðồng phát triển đàn dê lên con số đột biến, sản phẩm từ dê sẽ bán cho ai và bán đi đâu?...
Bài toán kinh tế này có lẽ không đơn giản. Với sự đầu tư hàng chục tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước, niềm kỳ vọng đối với dự án là giúp đồng bào DTTS nghèo phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, càng phải nhìn nhận kỹ càng hơn. Theo chúng tôi, nếu thấy cần thiết thì nên mạnh dạn điều chỉnh hoặc thay thế bằng vật nuôi khác ít nguy cơ dịch bệnh và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, thị trường ít biến động hơn. Làm sao để khi bỏ vốn đầu tư sẽ mang lại lợi ích cho dân mà không gây lãng phí tài sản của Nhà nước.