Làng xã quê hương và nỗi niềm

Vào mỗi dịp Tết, người ta dù còn quê hương hay không vẫn nghĩ về làng xã, tất nhiên quê hương không bao giờ mất đi, nhưng dưới khái niệm cái làng, như người ta từng sống, không phải đâu cũng còn.

Sản xuất tại làng nghề miến Cự Ðà. Ảnh: Thành Phương
Sản xuất tại làng nghề miến Cự Ðà. Ảnh: Thành Phương

Chẳng hạn quê tôi ở xã Tứ Minh, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương cũ) nay trở thành phường Tứ Minh thuộc thành phố Hải Dương, tất cả những ký ức về làng quê, bờ tre, bến nước, cầu khỉ, mái nhà gianh, cây đa, sân đình... biến mất sạch sẽ trong cái phường mới, thay vào đó là những ngôi nhà bê-tông, thấp hoặc cao tầng. Ðương nhiên quan hệ làng xóm chỉ còn sót lại ít nhiều ở những nhà gần nhau, còn đầu phố và cuối phố, người trước đây là dân cùng làng, nay đã rất xa lạ. Người ta không thể sống mãi bằng những hoài niệm, quá khứ thế nào cũng phải thay đổi, nhất là trong quá trình toàn cầu hóa bây giờ, và nhất là quá trình ấy diễn ra ở nước ta không được nhận thức đầy đủ. Người ta phá hủy cái cũ, quá khứ, di sản đôi khi chỉ đổi lấy vài cái xe máy, ô-tô, rước về những nhà máy, sau vài năm phá sản trở thành những đống rác công nghiệp, và ngay khi nó hoạt động thì lợi hại không biết thế nào, nhưng văn hóa cổ truyền mất sạch. Sự phát triển không tính đến những giá trị văn hóa ở bất cứ đâu là một suy nghĩ thiển cận, một mảnh đất mới dù giàu có nhưng hoang vu về văn hóa, trống rỗng về văn hóa, luôn kèm theo tệ nạn, bệnh tật và sự thờ ơ là bản tính với cộng đồng của con người hiện đại, rồi người ta lại phải mất rất nhiều tiền để chữa căn bệnh hiện đại đó. Ðây là câu chuyện không mấy giá trị nếu cứ bàn mãi về lý thuyết, nên chúng tôi nghĩ nên tìm vài thí dụ cụ thể.

Từ một làng gốm cổ

Thổ Hà có lẽ được coi là ngôi làng đẹp nhất Bắc Bộ cho đến tận ngày nay. Làng này xưa kia thuộc về Kinh Bắc, nay về địa lý, thuộc về xã Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang, nằm sát sông Cầu nên thơ. Nếu đi từ thị xã Bắc Ninh vào đường Yên Phong, thì chỉ mất chừng 6 km đến sát bến đò, qua sông là làng Thổ Hà, còn đi đường bộ thì xa hơn, phải vòng mấy chục km lên phía bắc ở Việt Yên. Nghề gốm cổ theo truyền thuyết có từ thời Lý - Trần, kéo dài đến những năm bao cấp của thế kỷ 20, thì hoàn toàn phá sản, trong khi hai làng nghề Phù Lãng và Bát Tràng cùng thời vẫn tồn tại.

Trong ba làng gốm truyền thống, thì Bát Tràng sản xuất gốm sắc trắng (gốm trắng vẽ hoa lam), Phù Lãng làm gốm sắc vàng (men vàng da lươn), còn Thổ Hà làm gốm sắc đỏ (sành đất nung đỏ). Chất lượng gốm sành Thổ Hà tốt nên phù hợp với các đồ chum vại lớn và tiểu sành. Người làng cho biết, những năm 1951, 1952, do chiến tranh, nhiều người chết nên tiểu sành Thổ Hà bán rất chạy, cũng do đồ sành Thổ Hà tốt, không ngấm nước, nên Chính phủ đã đặt nhiều để đựng hóa chất. Năm 1954, cuộc cải cách tư bản tư doanh bắt đầu, phần lớn chủ lò gốm Thổ Hà bị quy thành tư sản và bị sung lò vào hợp tác xã. Việc làm ăn ở hợp tác xã hoàn toàn theo kế hoạch, không nghiên cứu thị trường, kết quả thợ giỏi chết dần, đồ nhựa, đồ kim loại thay thế tất cả các đồ đựng sành cổ. Năm 1986, làng gốm có hơn 700 tuổi sập tiệm.

Dù cách không xa thành phố Bắc Ninh, nhưng quá trình đô thị hóa ở Thổ Hà coi như chưa diễn ra do làng ở mom sông, đồng ruộng ít, các doanh nghiệp gần như không thể phát triển, do giao thông hoàn toàn không thuận tiện. Nhưng một làng nghề truyền thống có cách ô nhiễm khác, chưa cần đến công nghiệp. Rác thải lâu nay vẫn chất ra sông Cầu, đợi mùa lũ về tống đi, cống thoát nước của cả làng cũng thông ra sông cả. Thời còn làm gốm, thì than củi, đất, hóa chất đều giải quyết theo kiểu cục bộ. Cho đến những năm 2000, con sông Ngũ Huyện Khê tiếp giáp sông Cầu bị quá nhiều làng quanh đó, cũng gần với Thổ Hà biến thành con ngòi bùn đen ngòm. Làng Thổ Hà tiếp giáp với làng Vân nấu rượu, nên lợn nuôi thả rông quanh làng, nghề gốm không còn, nghề làm bánh đa thay thế, và cảnh tượng phơi bánh đa là hình ảnh thường thấy ở Thổ Hà hiện nay, không biết nó giải quyết được bao nhiêu công ăn việc làm và có vai trò kinh tế thế nào với một làng cổ.

Quyết định của dòng họ

Dù vai trò của đại gia đình và dòng họ không còn lớn như thời phong kiến, nhưng do đặc điểm của nền kinh tế thị trường mới đối với làng xã, dòng họ bỗng nhiên lại có giá trị trở lại. Trước tiên là xây nhà thờ họ, chiêu tập những thành viên xa có năng lực giúp đỡ người cùng họ trong làng. Mỗi họ hiện nay cố gắng xây dựng cho các thành viên trẻ những nghề nghiệp khác nhau, trước tiên cho thanh niên có việc làm, sau đó họ có trách nhiệm với dòng họ nói chung. Khuynh hướng là sao cho mỗi dòng họ đều có người đi học sau đó đi làm trong các ngành công an, phòng thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục, tư pháp, ngoại ngữ... và việc đi học sẽ được cả họ giúp đỡ nếu thanh niên đó biết nghe lời phân công. Nhìn ở mặt ngoài, chúng ta thấy điều đó không có gì sai, và thanh niên được học hành có công việc là tốt, nhưng với lối sống của làng xã - một người làm quan cả họ được nhờ - thì đây có thể được coi là vấn nạn xã hội. Tất cả những thành viên trong họ sẽ có trách nhiệm giúp đỡ người cùng họ đầu tiên, từ việc chạy trường cho trẻ con, xin xe nếu bị công an phạt, tư vấn luật pháp trong kinh doanh và vòng vo về thuế má... Với tình trạng tiêu cực trong cơ chế hành chính hiện tại, thì việc dòng họ có đủ thành viên trong các ngành chính yếu của xã hội thì có nghĩa sức mạnh của quốc gia buộc phải chia sẻ để phục vụ dòng họ.

Tôi thấy có điều lạ rằng, không dòng họ nào không đề cao đạo đức lễ nghĩa, nhưng họ lại không hề coi việc đút lót, chạy trường, chạy điểm, chạy tiêu cực trong các dự án thuộc về đạo đức (dòng họ).

Sau hơn 25 năm Ðổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường, nông thôn là nơi chứa chất các mâu thuẫn xã hội rõ nét nhất và cũng là nơi thay đổi sâu sắc nhất. Người ta lưu luyến một làng quê Việt xa xưa, tình cảm, mà quên mất, cũng từ hàng trăm năm trước, nó là nơi tù đọng các xung đột xã hội - dù ở quy mô làng xã - nhưng tương tự như nhau ở mức độ quốc gia và luôn bị bịt đi không muốn giải quyết. Hình ảnh làng quê thanh bình chỉ là bề ngoài, nhất là khi dân số mỗi làng hiện tăng lên gấp ba, bốn lần so với năm 1954, và so với năm 1975, trong khi quỹ đất không tăng mà còn giảm đi do chuyển nhượng cho các khu công nghiệp. Hàng vạn con người vẫn ở đó, không còn là nông dân, nhưng cũng rất ít trở thành công nhân, trí thức có tay nghề, mà chưa biết thay đổi thế nào trong phân công lao động mới, trong đó năng lực con người, nhất là năng lực lao động chưa đáp ứng được với sản xuất công nghệ hiện đại.

Người ta không thể sống mãi bằng những hoài niệm, quá khứ thế nào cũng phải thay đổi, nhất là trong quá trình toàn cầu hóa bây giờ, và nhất là quá trình ấy diễn ra ở nước ta không được nhận thức đầy đủ.