Làn điệu xưa vọng mãi đến mai sau

Khi bạn bè đồng trang lứa các nơi mải mê với những trò chơi hiện đại, thì những em thiếu nhi ở huyện Ðông Anh (Hà Nội) lại say mê học hát, tìm đến những làn điệu xa xưa. Những đứa trẻ ngày ngày hát chèo ở các câu lạc bộ nghệ thuật truyền thống xã Nam Hồng, Kim Chung, Hải Bối...; hát tuồng ở Việt Hùng, Xuân Nộn, Cổ Loa...; hát ca trù, quan họ ở Liên Hà, Uy Nỗ. Các em được "ươm mầm" từ thơ bé, để lưu giữ những làn điệu cổ truyền cho mai sau.

Câu lạc bộ tuồng đồng ấu thôn Đường Yên (xã Xuân Nộn) luyện tập trích đoạn "Trưng Nữ Vương đề cờ".
Câu lạc bộ tuồng đồng ấu thôn Đường Yên (xã Xuân Nộn) luyện tập trích đoạn "Trưng Nữ Vương đề cờ".

Làng nào cũng là làng... nghệ sĩ

Bọn trẻ đã tụ tập ở nhà "mẹ" Hằng. Chúng líu ríu chuẩn bị áo, quần, cờ quạt và cả "binh khí" nữa. Hôm ấy, "mẹ" Hằng sẽ "luyện" cho chúng trích đoạn tuồng "Trưng Nữ vương đề cờ". Cậu bé Ðào Huy Hoàng cầm lá cờ múa thử. Ðến đoạn Hai Bà Trưng chuẩn bị cắt máu ăn thề, Hoàng sẽ xuất hiện như một chiến tướng múa cờ. Buổi học chưa bắt đầu, nhưng cô bé Ðào Thị Vân Anh hơi căng thẳng. Ðã vào vai Trưng Trắc - vai chính trong trích đoạn nhiều lần, nhưng lần nào Vân Anh cũng hồi hộp. Ðoạn khó nhất là khi Trưng Trắc nghe tin chồng qua đời, diễn thế nào để thể hiện nỗi đau "nước mất nhà tan" của Trưng Vương là điều rất khó với cô bé mới 13 tuổi. "Mẹ" Hằng đi một bài vũ đạo của vai Trưng Trắc, dứt bài, "mẹ" chuyển sang làm nhạc công, vừa đánh trống, vừa chỉ đạo bọn trẻ diễn...

Ðó là buổi tập của Câu lạc bộ tuồng đồng ấu làng Ðường Yên (xã Xuân Nộn). Trong dịp hè, tuần nào lũ trẻ cũng tập trung một, hai buổi ở nhà "mẹ Hằng" để luyện tập. "Mẹ" Hằng là cách gọi thân mật của bọn trẻ Ðường Yên với chị Ðỗ Thanh Hằng - diễn viên tuồng không chuyên, kiêm nhạc công, kiêm Chủ nhiệm Câu lạc bộ. Xuân Nộn có hai thôn thì có đến... ba câu lạc bộ tuồng, một câu lạc bộ của xã; hai thôn Ðường Yên và Lương Quy, mỗi thôn lại có một câu lạc bộ tuồng đồng ấu (của thiếu nhi). Xuân Nộn là đất tuồng mấy trăm năm nay, khi hòa bình mới lập lại ở miền bắc, năm 1956, dù hoàn cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, người Xuân Nộn đã khôi phục đội tuồng. Thủa bé, Hằng ngồi xem các buổi diễn tuồng mà như nuốt lấy từng lời, ngưỡng mộ những thần tượng Bà Trưng, Bà Triệu, Ðào Tam Xuân,... Chẳng hiểu thế nào, khi mở lớp, cô bé không được chọn để truyền dạy. Rồi một ngày, cô bé Hằng "bị" phát hiện khi ngồi dưới "nhắc vở" cho những diễn viên nhí trên sân khấu không thuộc lời. Các thầy cứ tiếc vì không biết đến năng khiếu của bé Hằng sớm hơn... Mấy chục năm đã trôi qua, cô bé mê tuồng ngày ấy giờ đã là một diễn viên không chuyên có tiếng của Xuân Nộn. Chưa có dịp nào mà hội làng, liên hoan văn nghệ của làng, của xã chị Hằng vắng mặt. Chị cũng tham gia nhiều hội diễn văn nghệ không chuyên trên khắp đất nước. Và giải thưởng thấp nhất chị giành được qua những kỳ hội diễn là... huy chương vàng. Khi thì hoá thân vào vai công chúa Mỵ Nương với mối tình đẫm lệ, khi thì tả xung hữu đột trong vai chiến tướng Triệu Trinh Nương... Cả một bức tường nhà chật những huy chương, bằng khen... Chị Hằng truyền lại đam mê cho lũ trẻ Ðường Yên và được bọn trẻ vô cùng yêu mến. "Lúc mới bắt đầu diễn, cháu hơi run, nhưng nhờ được "mẹ" Hằng đứng ở cánh gà động viên, nên cháu thấy yên tâm và thường vượt qua được "chặng" khó nhất trong các vai diễn" - "đào nhí" Vân Anh, cô bé được vinh dự vào vai Trưng Trắc, nói về người thầy của mình.

Nếu như câu chuyện ở Xuân Nộn là "của hiếm" ở các địa phương, thì ở Ðông Anh, đó lại là "chuyện thường ngày ở huyện". Ðông Anh có 24 xã, thị trấn thì có mười đội tuồng ở các xã: Xuân Nộn, Cổ Loa, Việt Hùng, Liên Hà... Nghệ thuật hát chèo cũng phát triển "hùng hậu" không kém, bảy địa phương có câu lạc bộ hát chèo. Cải lương là nghệ thuật truyền thống của phương nam, nhưng người Ðông Anh cũng kịp "nhập khẩu" về hai xã Vĩnh Ngọc và Ðông Hội. Ðó là chưa kể rất nhiều câu lạc bộ hát dân ca, câu lạc bộ quan họ, câu lạc bộ phóng điểu (luyện và chơi chim bồ câu)... mà gần như làng nào cũng có. Bởi thế, về Ðông Anh, không chỉ những người trực tiếp tham gia câu lạc bộ nghệ thuật mới có thể biểu diễn, chuyện một cụ già hay một em nhỏ vừa nói chuyện, vừa ứng dụng những lời ca, câu hát của nghệ thuật truyền thống vào khẩu ngữ hằng ngày là điều không hiếm gặp.

Nói về nghệ thuật truyền thống ở Ðông Anh, sẽ thật thiếu sót nếu không nói đến rối nước Ðào Thục. Cả nước hiện giờ chỉ còn khoảng mười làng rối nước thì Ðông Anh tự hào là một trong những làng rối lâu đời nhất, có từ thế kỷ 18, do Quận công Ðào Ðăng Khiêm truyền dạy. Chúng tôi đến Ðào Thục đúng ngày một nhóm nghệ nhân "xuất quân" biểu diễn ở nơi xa. Ông Ðinh Thế Văn, nghệ nhân cao niên của phường tự hào: "Giờ phường tổ chức làm ba nhóm để khi cần, cùng lúc có thể diễn nhiều suất, ở nhiều địa điểm khác nhau, có ngày, làng Ðào Thục đón hai, ba đoàn khách quốc tế đến thăm". Cùng với niềm vui về nghệ thuật múa rối phát triển, điều nghệ nhân Ðinh Thế Văn tự hào hơn cả là tính kế thừa ở phường rối này. Phường có hơn 40 thành viên thì có đến 25 thành viên trẻ tuổi, ở độ tuổi trên dưới 30. Sở dĩ với múa rối nước, độ tuổi 30 được coi là trẻ vì trước hết đòi hỏi phải có sức khỏe mới có thể điều khiển quân rối. Có người nói, phường rối Ðào Thục là phường rối cha - con. Bởi những gương mặt trẻ nổi bật, như Ðinh Hữu Hùng, Ðinh Văn Dũng, Ðinh Văn Chiến... đều sinh ra trong những gia đình có nhiều thế hệ biểu diễn rối nước. Trong những cặp cha con này, nổi bật nhất phải kể đến gia đình ông Ðinh Hữu Tự - Phó phường rối phụ trách kỹ thuật và con gái ông, em Ðinh Thị Thu. Ngâm mình dưới nước là một thử thách, nhất là vào mùa đông lạnh, cầm chiếc sào điều khiển quân rối thì rất nặng nên phái yếu thường không thể vượt qua khó khăn này. "Từ nhỏ đi xem bố biểu diễn rối em rất thích. Em tự hỏi không biết tại sao quân rối lại có thể làm được những động tác như thế. Em "vòi" bố bằng được để theo học. Học múa rối cảm thấy như một cuộc thám hiểm. Ðến lúc chinh phục được những màn biểu diễn khó thì thấy hạnh phúc vô vùng", cô gái tuổi ngoài 20 nhưng đã nhiều năm kinh nghiệm biểu diễn rối Ðinh Thị Thu tâm sự. Hiện giờ, nhiều buổi diễn của Ðào Thục có sự tham gia của cả hai cha con. Thu nhập từ hoạt động biểu diễn phục vụ du lịch bước đầu góp phần cải thiện đời sống người dân, khiến người dân thêm gắn bó với nghệ thuật quê hương.

Bài học về "ươm mầm" nghệ thuật

Những năm gần đây, Ðông Anh là một trong những địa bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất của Hà Nội. Bởi thế, không thể không ngạc nhiên khi nơi đây, những bộ môn nghệ thuật "khó học, khó xem" như tuồng, chèo, ca trù..., từ già lẫn trẻ đều say mê. Lý giải điều này, chị Ðỗ Thanh Hằng tâm sự: "Người Xuân Nộn chúng tôi mê tuồng lắm. Nhưng nói gì thì nói, xã hội giờ có nhiều thay đổi, nếu không quan tâm thì thế hệ trẻ cũng sẽ dễ xa rời tuồng. Làng xóm phải bảo nhau "nuôi" tuồng. Chúng tôi thành lập ra đội tuồng dành cho trẻ em. Từ những năm 1990, những đội tuồng đồng ấu đầu tiên ra đời. Cứ vài năm, khi các cháu lớn tuổi lại thành lập đội tuồng mới. Cứ thế, lớp này kế lớp kia. Lớp tuồng đồng ấu trước có hai cháu giờ là diễn viên Nhà hát Tuồng Trung ương. Lớp hiện giờ bắt đầu từ năm 2010, cháu lớn nhất 13 tuổi, cháu nhỏ nhất mới lên chín". Lứa đồng ấu lớn lên nếu không sinh hoạt ở Câu lạc bộ dành cho người lớn, thì ít nhất, cũng trở thành một khán giả say mê tuồng. Ðây cũng là cách mà các địa phương khác ở Ðông Anh giữ gìn nghệ thuật truyền thống. Ở Ðào Thục, các cháu học lớp bảy, lớp tám bắt đầu được học cách điều khiển quân rối. Nghỉ hè, những lúc rảnh rỗi, các cháu được vào hậu trường tòa thủy đình để luyện dần tay nghề. Chẳng mấy chốc các cháu đã thành lứa kế cận. Ở Lỗ Khê, Câu lạc bộ ca trù có thành viên trẻ nhất mới... lên bảy, người cao niên nhất đã 85 tuổi...

Mỗi dịp liên hoan đàn và hát dân ca trong khối trường học, cán bộ của ngành văn hóa, ngành giáo dục trên địa bàn có những buổi làm việc cật lực. Có năm, liên hoan thu hút hơn 1.500 giáo viên, học sinh các lứa tuổi tham gia. Chị Nguyễn Thị Hạnh - Phó Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Ðông Anh cho biết: "Về chủ trương, nhiều năm qua, huyện luôn khuyến khích các địa phương "ươm mầm" nghệ thuật truyền thống cho các em nhỏ. Mặc dù kinh phí cho hoạt động văn nghệ quần chúng hạn hẹp, nhưng năm nào huyện cũng dành từ 150 triệu đồng đến 200 triệu đồng để hỗ trợ các câu lạc bộ, góp phần động viên các nghệ nhân "làng". Phải liên tục bồi đắp, nếu không tình yêu với nghệ thuật truyền thống rất dễ có nguy cơ phai nhạt trong thời đại công nghệ hiện nay".

Quây quần cùng các cháu diễn viên nhí của đội tuồng đồng ấu thôn Ðường Yên, tôi bất chợt hỏi: "Trong nhóm có cháu nào biết chơi trò chơi điện tử?". Khá nhiều cánh tay giơ lên. Tôi hỏi tiếp: "Vậy cháu nào biết nhảy hip-hop?". Một cháu nhanh nhảu: "Cháu biết chơi cả điện tử lẫn nhảy hip-hop". Tất cả mọi người đều bật cười. Ai bảo rằng nghệ thuật truyền thống không thể "sống chung" với cuộc sống hiện đại, với công nghệ? Ðừng đổ lỗi cho xã hội khi nghệ thuật truyền thống mai một, bởi tình yêu với nghệ thuật truyền thống không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên lớn lên, mà cần được gieo mầm, cần sự chăm sóc, vun trồng...

Có thể bạn quan tâm