Đa dạng nguồn vốn cho phát triển bền vững

Trong bối cảnh nhu cầu vốn cho phát triển bền vững rất lớn, yêu cầu đặt ra là cần tăng cường, vận động mọi nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia, nhất là từ thị trường vốn trái phiếu xanh, tín dụng xanh, thị trường carbon và các nguồn huy động quốc tế bên cạnh ngân sách nhà nước.

Toàn cảnh Hội thảo.
Toàn cảnh Hội thảo.

Nhằm tìm kiếm những giải pháp khả thi, cụ thể để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này, ngày 15/12 tại Hà Nội, Báo Tài chính-Đầu tư tổ chức hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững”.

Nhu cầu vốn lớn và áp lực hiện hữu

Phát biểu khai mạc hội thảo, Tổng Biên tập Báo Tài chính-Đầu tư Phạm Văn Hoành nhấn mạnh, phát triển bền vững đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam. Biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, các cam kết quốc tế về giảm phát thải, cùng mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 đang đặt ra sức ép rất lớn về nguồn lực đầu tư.

z7327729394403-773f5f1683a4891f8b48de77329b7011.jpg
Tổng Biên tập Báo Tài chính-Đầu tư Phạm Văn Hoành phát biểu khai mạc hội thảo.

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong kịch bản trung hòa carbon, tổng nhu cầu đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế xanh, bền vững đến năm 2050 vào khoảng 670-700 tỷ USD, trong đó riêng nhu cầu cho thích ứng với biến đổi khí hậu đã lên tới khoảng 368 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm. Đây là thách thức không nhỏ, cho thấy nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước hoặc một vài kênh vốn truyền thống, bài toán phát triển bền vững khó có lời giải thỏa đáng.

Trong nhiều năm qua, hệ thống ngân hàng tiếp tục là kênh dẫn vốn chủ lực của nền kinh tế, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy tín dụng xanh và tài chính bền vững.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc Cảnh cho biết, ngành ngân hàng Việt Nam xác định rõ vai trò là một trong những kênh huy động vốn quan trọng phục vụ phát triển kinh tế bền vững.

“Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của 'tín dụng xanh' và 'tài chính bền vững', Ngân hàng Nhà nước không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách, triển khai đồng bộ các giải pháp để thúc đẩy hoạt động tín dụng xanh”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.

Dư nợ tín dụng xanh toàn hệ thống tăng trưởng nhanh, theo đó tính đến 30/11, dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng 750 nghìn tỷ đồng, mức tăng trưởng bình quân giai đoạn từ năm 2017 đến nay đạt hơn 21%/năm, phản ánh sự chuyển dịch rõ nét của dòng vốn vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch, lâm nghiệp bền vững và các mô hình kinh tế tuần hoàn.

z7327729412293-4de7306a1f85fb921d66d2a3c3b60a70-766.jpg
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc Cảnh phát biểu tại hội thảo.

Tuy nhiên, bản chất của tín dụng ngân hàng vẫn là vốn ngắn và trung hạn, chịu ràng buộc chặt chẽ bởi yêu cầu an toàn hệ thống. Trong khi, các dự án xanh, chuyển đổi năng lượng hay hạ tầng bền vững lại đòi hỏi vốn dài hạn, chi phí thấp và thời gian hoàn vốn kéo dài. Nếu dồn quá nhiều áp lực cho hệ thống ngân hàng, rủi ro mất cân đối và gia tăng gánh nặng tài chính là điều khó tránh khỏi.

Đa dạng hóa nguồn vốn: yêu cầu mang tính cấu trúc

Đa dạng hóa nguồn vốn vì thế không chỉ là mở thêm kênh huy động, mà là yêu cầu tái cấu trúc toàn diện hệ thống tài chính theo hướng cân bằng hơn giữa ngân hàng, thị trường vốn, khu vực tư nhân và nguồn lực quốc tế.

Là ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực "tam nông", đại diện Agribank, ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng ban Chính sách tín dụng nhận định: Năm 2025 là thời điểm bước ngoặt nhờ những thay đổi đột phá về hành lang pháp lý. Trong đó, Nghị định 156/2025/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định 55) có hiệu lực từ 1/7 là một "cú hích" lịch sử khi cho phép các tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm lên tới 70% giá trị dự án đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoặc kinh tế tuần hoàn.

"Chính sách này giúp ngân hàng chuyển tư duy từ cho vay dựa trên tài sản thế chấp sang cho vay dựa trên dòng tiền và hiệu quả dự án xanh. Đây là cơ hội vàng để các doanh nghiệp, hợp tác xã tiếp cận vốn cho các nhu cầu cấp thiết như chuyển đổi số, đáp ứng tiêu chuẩn ESG để xuất khẩu sang EU, Mỹ, Nhật Bản…", ông Quý chia sẻ.

z7327901089007-6e636458e9c55f8874f0acea583b3dc6-2254.jpg
Ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng ban Chính sách tín dụng ngân hàng Agribank.

Cũng theo ông Quý, Quyết định 21/2025/QĐ-TTg về danh mục phân loại xanh cũng giúp các ngân hàng dễ dàng nhận diện và thẩm định dự án, tránh rủi ro "tẩy xanh" (greenwashing). Tính đến quý III/2025, dư nợ tín dụng xanh của Agribank đạt hơn 28.000 tỷ đồng.

Tuy nhiên, để khơi thông mạnh mẽ hơn nữa dòng vốn cho phát triển bền vững, Agribank cũng kiến nghị Chính phủ cần sớm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về phát thải, chuẩn hóa quy định đo lường khí nhà kính để ngân hàng có cơ sở đánh giá rủi ro chính xác hơn.

Phó Thống đốc Nguyễn Ngọc Cảnh cũng nhấn mạnh, bên cạnh những nỗ lực đáng ghi nhận của ngành ngân hàng, thực tế cho thấy cần phải đa dạng hóa nguồn lực tài chính, đòi hỏi sự tham gia của các kênh vốn trong và ngoài nước, đặc biệt từ khu vực tư nhân và thị trường vốn (ở đây là thị trường chứng khoán), hợp lực cùng hệ thống ngân hàng để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi xanh và phát triển bền vững của đất nước.

“Việc mở rộng các kênh vốn đầu tư tài chính xanh từ nhiều khu vực, thị trường không chỉ góp phần giảm áp lực lên hệ thống ngân hàng mà quan trọng nhất còn tạo điều kiện huy động nguồn vốn trung-dài hạn linh hoạt, an toàn và hiệu quả hơn cho mục tiêu chung của quốc gia, phù hợp với xu hướng tài chính xanh toàn cầu”, Phó Thống đốc nêu rõ.

z7327900986064-7540fc017066a3c831f002560533a42b-205.jpg
Ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho biết, hiện nay, khu vực ngân hàng của Việt Nam đang hoạt động khá sôi động và vẫn là kênh cung ứng vốn chủ đạo cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trong khi thị trường ngân hàng phát triển mạnh thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp tương đối khiêm tốn. Dư nợ trái phiếu doanh nghiệp hiện nay chỉ vào khoảng 10% GDP, cho thấy vẫn còn không gian rất lớn để phát triển.

“Nếu doanh nghiệp có thể tiếp cận thị trường trái phiếu để huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, thì áp lực lên hệ thống ngân hàng sẽ được giảm bớt. Khi đó, ngân hàng có thể tập trung nhiều hơn vào các khoản tín dụng ngắn và trung hạn, phù hợp hơn với đặc thù hoạt động của hệ thống ngân hàng”, ông Nguyễn Bá Hùng khuyến nghị.

Ngoài ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia huy động thành công nguồn lực cho phát triển bền vững đều dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa khu vực công và khu vực tư nhân. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, hoàn thiện thể chế, chia sẻ rủi ro ban đầu; khu vực tư nhân và thị trường vốn trở thành động lực chính cung cấp nguồn lực dài hạn.

Các mô hình tài chính kết hợp (blended finance), huy động vốn thông qua trái phiếu xanh, quỹ đầu tư ESG hay kết nối với thị trường vốn quốc tế đang ngày càng phổ biến. Khi môi trường đầu tư minh bạch, chi phí vốn hợp lý và rủi ro được kiểm soát, dòng vốn tư nhân sẽ được khơi thông mạnh mẽ, giảm áp lực cho ngân sách và hệ thống ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm