Chiến dịch "gạo bốn bao" mang mật danh R1


Giữa năm 1972, cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền bắc của giặc Mỹ ác liệt hơn. Hầu như các cửa biển, sông ngòi quan trọng đều bị bom từ trường, thủy lôi của địch phong tỏa. Chính phủ Trung Quốc đồng ý viện trợ lương thực cho ta, nhưng cảng Hải Phòng đã bị phong tỏa dữ dội, không thể cho tàu cập bến. Cuối cùng, một phương án táo bạo được vạch ra: Đưa tàu Hồng Kỳ của Trung Quốc vào neo đậu trong vũng Hòn La, dưới chân Đèo Ngang, thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch (Quảng Bình), rồi dùng tàu, thuyền nhỏ của ta "tăng bo" lên bờ, bốc lên xe tải vượt qua những "cửa tử" nổi tiếng ở miền trung như phà Ròn, phà Gianh, phà Long Đại, để lên đường Hồ Chí Minh vào nam... Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, lúc đó là Phó Thủ tướng kiêm Trưởng ban Điều hòa vận tải Trung ương, được giao chỉ đạo chiến dịch đặc biệt này.

Theo kế hoạch, tàu Hồng Kỳ treo quốc kỳ Trung Quốc vào neo trong vũng  Hòn La thì địch không dám oanh tạc. Lợi dụng điểm này, ban đêm ta sẽ tổ chức lực lượng lấy hàng bằng tàu nhỏ. Trời sáng thì ngụy trang trên bờ thật kỹ. Với cách này, nếu tích cực, trong vòng 30 đêm sẽ giải phóng hết hàng trên mỗi tàu Hồng Kỳ.

Ngày 29-5-1972, chiếc "Hồng Kỳ 150" chở hơn sáu nghìn tấn gạo tiếp tế vào đến Hòn La. Đêm đó, ta chèo thuyền ra làm thủ tục nhận hàng và dùng năm chuyến tàu VS, mười chiếc thuyền đánh cá vận chuyển trót lọt 500 tấn gạo vào cảng Gianh an toàn. Nhưng, hai hôm sau địch phát hiện, chúng dùng máy bay dội bom xuống Quảng Đông, ba chiếc tàu của chúng ngoài  khơi liên tục nã pháo vào bờ. Pháo sáng treo đầy mặt sóng. Lực lượng phòng không của bộ đội, dân quân Quảng Bình gồm các đơn vị pháo cao xạ, pháo 130 ly, súng 12,7 ly đã anh dũng ngày đêm giăng lưới lửa lên trời đánh trả máy bay, tàu chiến giặc. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt. Ngoài tàu Hồng Kỳ của Trung Quốc, tất cả những mục tiêu chung quanh đều bị nã pháo, các tàu thuyền lớn đều bị đánh hỏng. Hai thôn Thọ Sơn và Vĩnh Sơn dưới chân Đèo Ngang bị cày nát từng tấc đất.

Chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển sang phương án khác, huy động hơn 200 thuyền nan của ngư dân các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch tham gia vận chuyển, mà lực lượng nòng cốt là đội thuyền cảm tử của làng Cảnh Dương anh hùng. Với phương án này, ta vận chuyển thêm 1.715 tấn, nhưng rồi lực lượng thuyền nan cũng bị đánh hỏng hết, thương vong khá lớn. Riêng huyện Quảng Trạch mất 120 chiếc thuyền và 21 người hy sinh trên biển. Địch thả thủy lôi dày đặc, chỉ chừa luồng 500 mét đủ cho tàu Hồng Kỳ ra khơi. Máy bay lên thẳng Mỹ từng tốp rà sát mặt biển, bắn xả đạn vào bất cứ vật gì di động trên sóng.

Không thể lấy hàng bằng thuyền, ta nảy ra sáng kiến dùng tời kéo gạo vào bờ. Anh Hồ Tiến Quốc, cán bộ của Xí nghiệp đánh cá Sông Gianh, quê ở xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch quen sóng nước đã xung phong bơi một vòng ngót năm km từ bờ ra tàu Hồng Kỳ rồi trở lại trên những quả thủy lôi, dưới tầm đạn pháo giặc để nghiên cứu dòng chảy, sức gió, độ võng của dây tời. Và, họ lập một hệ thống dây tời dài 2,4 km từ bờ ra tàu Hồng Kỳ. Gạo được buộc lại từng kiện thả chìm dưới mặt nước, lại buộc thêm cái phao bằng bao tải nổi trên mặt để khi gạo chạm bờ, người ở trên thấy mà đội hầm chạy ra vác gạo vào cất giấu. Cách này tuy đỡ thương vong cho dân quân, nhưng tiến độ rất chậm. Tàu Hồng Kỳ 150 đã vào Hòn La gần hai tháng mà mới giải phóng được năm nghìn tấn, còn lại hơn một nghìn tấn phải chở về.

Không thể bó tay trước kẻ thù, gạo phải được khẩn trương tiếp tế cho tiền tuyến! Nhưng cả ba phương án dùng tàu lớn, thuyền nhỏ rồi dây kéo... đều không thành. Một sáng kiến hết sức mạo hiểm được đề xuất, đó là  gạo bọc trong bốn lớp vỏ bao thả trôi trên biển, lợi dụng sức gió tấp vào bờ. Người dân khu 4 và bộ đội ta thời đó quen gọi là "gạo bốn bao" của Trung Quốc. Cuối tháng 6-1972, ba cán bộ của ngành thủy sản Quảng Bình cảm tử dùng thuyền nan giả dạng ngư dân đánh cá, chở tám bao gạo ra cách bờ 600 mét, 800 mét rồi 1.000, 2.000 mét, thả xuống biển. Những bao gạo thả xuống biển, chìm như tảng băng. Buổi sáng gió tây - nam, gạo trôi ra biển, đến chiều có gió nồm mới chậm chạp trôi vào. Các ngư dân Quảng Bình khẳng định, như thế nếu có gió mùa đông-bắc, gạo sẽ trôi vào bờ. Đề xuất của chỉ huy chiến dịch được Trung ương chấp nhận. Cuối tháng 7-1972, tàu Hồng Kỳ 152 của Trung Quốc chở 6.000 tấn gạo được bọc trong bốn lớp vỏ bao sang đậu tại Hòn La. Chờ  mãi, đến đầu tháng 8, một cơn bão nhẹ xuất hiện, gạo được thả xuống biển, nương theo gió đông-bắc trôi vào bờ rất tập trung. Để thực hiện kế hoạch này, toàn bộ dân cư ven biển từ Quảng Bình vào đến Vĩnh Linh, bắc Vĩ tuyến 17 đều được huy động để vớt gạo "bốn bao" nộp vào kho Nhà nước. Gạo "bốn bao" trôi dạt vào tận Quảng Trị, Thừa Thiên. Bọn ngụy xuyên tạc "gạo bốn bao" của Trung Quốc có thuốc độc để ngăn không cho bà con miền nam vớt lên, nhưng do có thông báo trước, nên du kích vùng biển đã vận động nhân dân bí mật cất giấu rồi tổ chức các đường giao liên gùi cõng lên miền tây cho bộ đội giải phóng.

Kế hoạch "gạo bốn bao" tỏ ra hiệu quả hơn. Nhưng, địch cũng điên cuồng ngăn chặn. Chúng dùng pháo từ Hạm đội 7 nã suốt bờ biển để ngăn không cho dân ra lấy. Ở ngoài xa, máy bay lên thẳng quần đảo, rà sát mặt nước, xả đạn vào từng bao gạo để đánh chìm. Lúc đầu gạo được buộc thành chùm, trôi vào tập trung, nhưng địch dễ phát hiện, ta lại thả rời từng bao. Dân quân Quảng Đông có sáng kiến lên núi cắt lá cây buộc thành từng bó thả lẫn xuống biển với gạo để nghi binh địch. Ngày 15-8-1972, tàu Hồng Kỳ 152 thả xong gạo, trở về. Ngày 22-9, tàu Hồng Kỳ 162A chở 6.000 tấn khác vào đến Hòn La, nhưng mãi đến đầu tháng 11 mới thả hết gạo, bởi gặp mùa mưa bão lớn. Chuyến thứ tư, tàu Hồng Kỳ 162B cũng chở 6.000 tấn "gạo bốn bao", đến  Hòn La ngày 1-12-1972. Cũng như các chuyến trước, không dám đánh vào tàu Trung Quốc, nhưng giặc huy động tối đa hỏa lực pháo và máy bay từ Hạm đội 7 cày nát bờ biển Quảng Đông và ném bom dữ dội các công trình cầu, phà, đường... hòng ngăn chặn lực lượng vận chuyển của ta. Mặc, "gạo bốn bao" vẫn trôi vào bờ, vẫn được các lực lượng nhân dân tham gia vớt, bảo quản cho bộ đội. Tàu 162B thả được 250 tấn xuống biển, thì sáng 16-1-1973, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền bắc. Chỉ huy chiến dịch huy động các lực lượng vận tải giải phóng an toàn số gạo còn lại trên tàu, kết thúc chiến dịch "gạo bốn bao" mang mật danh R1!

QUA tám tháng chiến dịch R1, trong số 24 nghìn tấn gạo chi viện cho chiến trường ta, chỉ mất hai nghìn tấn bởi bom, đạn đánh chìm và trôi ra biển, một nghìn tấn phải chở về vì bị địch ngăn chặn ráo riết, còn lại đều được các địa phương ven biển từ Quảng Bình, Vĩnh Linh, Quảng Trị vớt, kịp thời tiếp tế cho bộ đội miền nam.

Cùng với chiến dịch R1, Trung ương chỉ thị cho Quảng Bình mở thêm ba chiến dịch khác mang mật danh R2, R3 và R4.

Có thể bạn quan tâm