Tỉnh nghèo Lai Châu và khát vọng "cất cánh"

Cán bộ - thiếu, cơ sở hạ tầng - yếu

Theo Nghị quyết số 22, kỳ họp thứ tư, QH khoá XI, tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 1-1-2004. Khi chia tách, tỉnh Lai Châu gồm năm huyện (chưa có thị xã): Mường Tè, Sìn Hồ, Phong Thổ, Tam Đường và Than Uyên (từ Lào Cai sang).

Sau khi chia tách, bao nhiêu nghèo khó như dồn cả về đây: trong số chín nghìn km2 diện tích tự nhiên, hơn 90% có độ dốc hơn 25o, 74/86 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, chỉ vậy thôi cũng đủ thấy Lai Châu khó khăn nhường nào. Các chỉ số phát triển kinh tế-xã hội trong tỉnh thấp ở mức đáng ngại: thu nhập bình quân 140 USD/người/năm, hộ đói nghèo 32,7%; hơn 300 nghìn dân nhưng số lao động trong độ tuổi chỉ chiếm 50%, trong đó, mới 11% được đào tạo nghề, chất lượng và năng suất lao động rất thấp. Các tiêu chí về cơ sở hạ tầng đều gần như ở mức “trắng” hoàn toàn. Đường điện 35 kV trước đây phục vụ cho một huyện nhỏ Tam Đường, giờ trở nên quá tải với bộ máy tỉnh lỵ dồn về. Hơn 1.300 phòng học trong tỉnh là tranh tre tạm bợ, 50 xã chưa có nhà trẻ, mẫu giáo, các xã vùng sâu, vùng xa thiếu giáo viên đứng lớp, đặc biệt là giáo viên người dân tộc và thạo tiếng dân tộc. Trên địa bàn, chưa thành lập được một cơ sở đào tạo, dạy nghề nào. Về giao thông, mười xã chưa có đường ô-tô tới trung tâm, bốn tuyến quốc lộ 12, 4D, 32 và 279 và các tuyến tỉnh lộ trải nhựa chưa đầy 20%, vào mùa mưa hầu hết các xã bị cô lập. Toàn tỉnh mới có năm bệnh viện đa khoa tuyến huyện (chưa có bệnh viện cấp tỉnh), chín phòng khám khu vực và 86 trạm y tế cơ sở với hơn 600 giường bệnh; liền đó là 800 cán bộ y tế, nhưng số bác sĩ chưa đầy 10%. Tính bình quân chung, mười nghìn người chỉ có 20 giường bệnh và 2,1 bác sĩ, việc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân đang đặt ra hết sức bức xúc.

Tuy nhiên, cái thiếu nhất và bức xúc nhất hiện nay của Lai Châu là vấn đề cán bộ. Theo kế hoạch, sau khi chia tách, có xu hướng chuyển 1/3 số cán bộ trong tỉnh cũ về tỉnh mới, nhưng một số cơ quan, đơn vị không tách ra mà sẽ thành lập mới, cho nên, thực tế không thể đủ số 1/3 như dự tính. Trước đó, đội ngũ cán bộ của tỉnh cũ đã thiếu, yếu và bất hợp lý, nay chia tách càng thiếu, yếu và bất hợp lý hơn. Các ngành trong tỉnh thiếu hơn 2.000 cán bộ, đặc biệt là chuyên gia đầu ngành, cán bộ có kinh nghiệm. Đó là chưa kể nỗi khó khăn, vất vả của những người lên đây nhận công tác. Mặc dù đã tính toán và có lưu ý về vấn đề cán bộ, nhưng “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, không thể có cách nào vẹn toàn đôi ngả. Chẳng ai muốn rời xa mái ấm gia đình, nơi mình mất bao công sức tạo dựng để lên một nơi khó khăn còn chồng chất. Chúng tôi biết, vì nhiệm vụ, họ vẫn vui vẻ ra đi, nhưng trong thâm tâm mấy ai không tiếc nuối. Có những gia đình chồng một nơi, vợ một chốn, con cái đang học đành gửi lại người thân; những cán bộ đã lớn tuổi, phải sống lại thời xa xưa ăn cơm tập thể, nằm bàn làm việc.

Mảnh đất giàu tiềm năng

Có thể nói rằng, Lai Châu là mảnh đất vừa nghèo vừa giàu. Lai Châu nghèo, nhưng bù lại, mảnh đất này cũng được thiên nhiên ưu đãi, có nhiều tiềm năng về khoáng sản. Qua khảo sát sơ bộ, đã phát hiện một số mỏ như đất hiếm ở Nậm Xe trữ lượng hơn 20 triệu tấn, mới khai thác ở quy mô nhỏ; vàng ở khu vực Chinh Sáng, Pu Sam Cáp,… Ngoài ra, còn có các điểm quặng đồng, chì, kẽm, đá lợp dọc sông Đà, sông Nậm Na.

Là vùng thượng lưu sông Đà, mật độ sông suối dày đặc, cùng lượng mưa trung bình năm lớn, nguồn nước mặt trên địa bàn tỉnh khá dồi dào. Sông Đà chạy dọc địa bàn huyện Mường Tè, cùng hệ thống ba chi lưu cấp 1 gồm sông Nậm Na, Nậm Mạ và Nậm Mu là nguồn tài nguyên lớn phục vụ sản xuất, phát triển công nghiệp thuỷ điện (Nậm Nhùn, Huổi Quảng, Bản Chát). Thuỷ điện Nậm Nhùn đã được quy hoạch với công suất 880 MW, lớn thứ ba sau Sơn La và Hoà Bình.

Tuy là tỉnh núi cao, độ dốc lớn, nhưng xen kẽ là những thung lũng có địa hình tương đối bằng phẳng như Mường So, Tam Đường, Bình Lư, Than Uyên…thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đất sản xuất nông nghiệp đã sử dụng hơn 64 nghìn ha, chiếm 7,1% diện tích tự nhiên, diện tích đất trống, đồi trọc có khả năng sử dụng còn tới hơn 525.800 ha. Đất lâm nghiệp đang có rừng gần 284 nghìn ha, hầu hết là rừng tự nhiên, độ che phủ đạt 31%. Tỉnh Lai Châu có chế độ khí hậu điển hình của vùng nhiệt đới núi cao Tây Bắc, phân thành những tiểu vùng khác nhau, thích hợp phát triển các loại cây trồng.

Kinh tế cửa khẩu cũng là một thế mạnh, cửa khẩu Ma Lù Thàng giáp huyện Kim Bình (Vân Nam, Trung Quốc), một nơi sầm uất, mức độ tiêu thụ hàng hoá cao. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu qua cửa khẩu Ma Lù Thàng khoảng 70 triệu USD. Những lợi thế về khí hậu, điều kiện tự nhiên có thể tạo nên khả năng du lịch (đỉnh Phan Xi Păng, du lịch sinh thái Sìn Hồ, động Tiên Sơn, suối nước nóng Vàng Bó). Tuy nhiên, những lợi thế này chưa được đầu tư nhiều, khả năng phát huy còn hạn chế.

“Cất cánh” bằng cách nào?

Những tiềm năng còn đang nằm im, chưa được đánh thức thì chưa thể gọi là ưu thế. Trữ lượng khoáng sản có, tấm lòng người Lai Châu cũng mở rộng thảm đỏ mời gọi đầu tư, nhưng thực lực đang có trong tay quá ít. Giao thông khó khăn, thông tin liên lạc bị bó hẹp, cùng một loạt các cơ sở hạ tầng cũng yếu kém như vậy, đủ khiến các doanh nghiệp có ý định đầu tư phải dè dặt. Giá trị hàng hoá qua cửa khẩu Ma Lù Thàng còn xa mới đuổi kịp Tân Thanh, Thanh Thuỷ, Cầu Treo, hơn nữa các mặt hàng bản địa gần như không có gì. Cánh đồng Mường Than tuy rộng lớn, nhưng phần lớn chỉ cấy một vụ, hệ thống thuỷ lợi nhỏ lẻ, phân tán, không chủ động được nguồn nước, muốn tăng năng suất, sản lượng hơn nữa rất nan giải. Và điều quan trọng hơn, đó là tiềm năng con người đang bị hao phí do hệ thống trường lớp, giáo viên, cơ sở đào tạo thiếu thốn…

Đặt ra những khó khăn, thách thức như vậy, để thấy thực tế trước mắt không hề đơn giản, đòi hỏi sự quyết tâm, nỗ lực cao nhất của các ngành, các cấp và nhân dân trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo. Nói gì thì nói, với gần 1/3 số hộ đói nghèo kinh niên, phải lấy nghề nông làm gốc, coi phát triển nông, lâm nghiệp là nền tảng vững chãi nhất, cơ bản nhất. Lĩnh vực nông, lâm nghiệp còn là khâu yếu, ngoài những lý do bất khả kháng về thời tiết, khí hậu, còn do chưa được sự đánh giá, quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành mặc dù chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.

Lợi thế rừng cần được phát huy qua việc trồng rừng nguyên liệu, thu lại các sản phẩm nhanh chóng, lấy ngắn nuôi dài. Những cánh đồng lớn cần tập trung đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi, đưa nhanh giống mới vào sản xuất. Do khí hậu khắc nghiệt, khó gieo cấy hai vụ lúa, có thể tăng hệ số sử dụng đất bằng các cây màu giống mới như ngô, lạc, đỗ tương. Đi liền đó, kiện toàn hệ thống khuyến nông cơ sở, làm sao để các chương trình khuyến nông phải xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, có sức lan toả rộng đối với đồng bào vùng khó khăn.

Đói, nghèo sẽ còn đeo bám dai dẳng khi người dân còn mù chữ và có nguy cơ tái mù. Phát triển kinh tế nếu không từ bệ phóng giáo dục, chẳng khác nào xây lâu đài trên cát. Nhưng bấy lâu nay, phát triển kinh tế là vấn đề cấp thiết ở các tỉnh miền núi, ai cũng gấp gáp với những chỉ tiêu kế hoạch tăng theo từng năm, cho nên giáo dục đào tạo thường bị xếp vào khâu thứ yếu. Huy động học sinh đến trường như “bắt cóc bỏ đĩa”, kết quả thực tế thu được rất thấp. Muốn nâng cao dân trí, không gì tốt hơn là ràng buộc trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền cơ sở trong vận động các gia đình đưa con em đến lớp, đưa việc này thành tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Nguồn ngân sách địa phương và vốn đầu tư xoáđói, giảm nghèo cũng cần ưu tiên cho xây dựng trường lớp, có chính sách hỗ trợ đối với học sinh, tuyển dụng giáo viên cho công tác phổ cập giáo dục; đãi ngộ thoả đáng giáo viên tại các xã đặc biệt khó khăn. Về lâu dài, có kế hoạch chọn lọc, gửi đi đào tạo học sinh người dân tộc thiểu số để sau này trở thành giáo viên về cắm bản hoặc cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Đồng thời, mở các lớp tập huấn, đào tạo lâu dài hoặc ngắn hạn cho cán bộ khuyến nông, những người làm kinh tế giỏi, hình thành đội ngũ khuyến nông viên đông đảo ở thôn, bản, nhằm đưa nhanh và hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật ứng dụng trong sản xuất.

Đối với Lai Châu, việc gì hiện nay cũng đang đặt ra những khó khăn, bức xúc, cần được giải quyết một cách đồng bộ, đòi hỏi nguồn kinh phí đầu tư rất lớn, tuy nhiên, vấn đề đầu tiên là thiếu vốn.

Hãy giúp đỡ Lai Châu!

Trong buổi làm việc với chúng tôi, ông Phạm Ngọc Thiểm, Bí thư Tỉnh uỷ xúc động nói: “Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng sự giúp đỡ có hiệu quả của các đơn vị, cá nhân, Lai Châu đã vượt qua được chặng đường khó khăn nhất”. Tỉnh đang xúc tiến ổn định hệ thống tổ chức, kiện toàn bộ máy cán bộ, có chính sách ưu tiên, thu hút người tài các nơi về  đây công tác. Đồng thời, tiến hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2015-2020, tính toán cụ thể, chi tiết những chủ trương, giải pháp và mục tiêu phát triển. Ông Phạm Ngọc Thiểm cho biết, ông đã nhận được rất nhiều lá thư tâm huyết của sinh viên, cán bộ từ dưới xuôi bày tỏ nguyện vọng được cống hiến sức lực, trí tuệ cho Lai Châu. Với cơ chế, thủ tục thoáng gọn trong mời gọi đầu tư, nhiều doanh nghiệp đã dừng lại ở Lai Châu tìm cơ hội lập nghiệp. Chưa đầy sáu tháng từ khi thành lập tỉnh mới, số lượng các doanh nghiệp đăng ký hợp tác đầu tư tăng nhanh, đây là những tín hiệu đáng mừng đầu tiên.

Với đặc thù địa hình chia cắt mạnh, phát triển nông, lâm nghiệp của tỉnh khó hình thành được các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, cũng như khó thành công khi đầu tư ồ ạt những cơ sở chế biến nông, lâm sản công suất lớn. Một số cơ sở chế biến đã lâm vào tình trạng thua lỗ, có nguy cơ phá sản do không tính được khả năng nguyên liệu. Phương án tối ưu nhất có lẽ vẫn chỉ là đa dạng hoá sản phẩm, gắn với các cơ sở chế biến quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, khấu hao nhanh, “mèo nhỏ bắt chuột con” là chắc ăn. Cả vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Lai Châu nói riêng, tiềm năng đất đai rộng lớn, với những tiểu vùng khí hậu khác biệt, thế nhưng các cơ quan nghiên cứu khoa học nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi đây là mảnh đất chiến lược để phát triển lâu dài. Đã đến lúc, các cơ quan này phải nghĩ tới việc thành lập cơ sở nghiên cứu đóng tại chỗ, đầu tư chất xám một cách đích đáng cho những công trình khoa học mang tính thực tiễn cao, ứng dụng rộng rãi trong sản xuất.

Chỉ vài tháng nữa thôi, Lai Châu sẽ thành lập thị xã tỉnh lỵ. Quy hoạch chung cho khu đô thị này đang được thiết kế, dự kiến đến năm 2006 sẽ khởi công. Rồi đây, một khu đô thị mới trong tâm khảm người Lai Châu vừa mang nét kiến trúc hiện đại, vừa đậm đà bản sắc của 20 dân tộc anh em, sẽ mọc lên giữa vùng đồi núi điệp trùng.

Cùng sự nỗ lực của chính mình, Lai Châu còn rất cần những tấm lòng từ các nơi, góp sức dựng xây quê hương mới. Hãy giúp đỡ, hợp tác với Lai Châu, để “con đại bàng” nhanh chóng cất cánh bay cao!

Có thể bạn quan tâm