Thời Hùng Vương, kinh đô của nước Văn Lang đặt tại Phong Châu (nay thuộc đất Phú Thọ). Vùng đất Thăng Long - Hà Nội bấy giờ gồm nhiều làng nhỏ xen kẽ nhau. Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên tức là thời Thục Phán An Dương Vương, kinh đô nước Âu Lạc dời về Cổ Loa, vùng này trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự của nước Việt cổ. Nước Âu Lạc tồn tại 29 năm (208 - 179 trước Công nguyên) thì rơi vào tay Triệu Ðà. Ðể đô hộ nước ta, chính quyền do các triều đại phong kiến phương Bắc cử sang chọn vùng đất nay là Thăng Long - Hà Nội để xây thành làm nơi đóng quân, đặt trụ sở cai trị. Ở giai đoạn cuối thời Bắc thuộc, thành Ðại La - trước đó là thành Tống Bình, là một tòa thành quân sự, dân cư trong vùng đã có sự phát triển nhất định về kinh tế, chính trị, văn hóa; đặc biệt, ở đây đã có sự xuất hiện của một số sư tăng đến từ Ðông - Nam Á, Ấn Ðộ...
Thời kỳ tiền Thăng Long, tức là từ trước Công nguyên đến thế kỷ 10, trên vùng đất nay là Thăng Long - Hà Nội đã ghi dấu những chiến công của quân dân ta trong các phong trào nổi dậy, đấu tranh nhằm giành lấy nền độc lập, tự chủ. Năm 40 - 41, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, đập tan chính quyền của thái thú nhà Hán Tô Ðịnh, đóng đô ở Mê Linh, đánh dấu thắng lợi đầu tiên trong phong trào kháng chiến chống Bắc thuộc. Năm 542, hào trưởng là người ở vùng Sơn Tây là Lý Bí đã dấy binh đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ông lên ngôi năm 544, xưng là Lý Nam Ðế, đổi quốc hiệu nước ta là Vạn Xuân. Triều đại Tiền Lý giữ vững nền độc lập đến năm 602 thì đất nước lại rơi vào tay nhà Tùy ở phương Bắc. Nhân dân ta tiếp tục các cuộc đấu tranh. Nửa sau thế kỷ 8, Phùng Hưng là thủ lĩnh ở vùng Ðường Lâm phát động khởi nghĩa, giải phóng vùng đất phía tây thành Ðại La. Tiết độ sứ nhà Ðường là Cao Chính Bình đem quân đàn áp, đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của nghĩa quân. Cao Chính Bình lo sợ, phát bệnh mà chết. Phùng Hưng lên ngôi, thiết lập chính quyền tự chủ, tồn tại đến năm 791. Ông được nhân dân suy tôn là Bố Cái Ðại Vương.
Năm 905, nhân lúc triều Ðường ở Trung Hoa đã suy tàn, Khúc Thừa Dụ - một hào trưởng có uy tín của vùng Chu Diên (sau đổi là Hồng Châu, nay thuộc tỉnh Hải Dương) đã nổi dậy, chiếm thành Ðại La, xóa bỏ chính quyền đô hộ. Sự kiện này đặt nền móng cho thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc. Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta, lật đổ chính quyền họ Khúc. Hào trưởng Ái Châu là Dương Ðình Nghệ khởi quân ra bắc, đánh đuổi quân xâm lược, khôi phục nền tự chủ và duy trì trong sáu năm (931 - 937). Ðến năm 938, quân Nam Hán do Thái tử Hoằng Thao chỉ huy lại tiến vào bờ cõi nước ta. Với thế trận bãi cọc được thiết lập ở cửa sông Bạch Ðằng, Ngô Quyền cùng quân dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang, giết chết Hoằng Thao, buộc vua Nam Hán phải rút quân về nước. Ngô Quyền xưng Vương, lấy Cổ Loa làm nơi đóng đô. Vùng này tiếp tục là trung tâm của cả nước cho tới năm 968, khi Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn mười hai sứ quân, lên ngôi Hoàng đế, chọn Hoa Lư là kinh đô của nước Ðại Cồ Việt.
Nhìn lại lịch sử dân tộc, việc chọn nơi định đô của nhiều triều đại phong kiến nối tiếp nhau cho thấy, đến cuối thế kỷ 10, vùng đất có thành Ðại La đã trải qua một quá trình hình thành lâu dài, có bước phát triển nhất định. Cùng với các thắng lợi về quân sự, thành tựu về kinh tế - văn hóa - xã hội mà Ngô Quyền và các vua triều Ðinh, tiền Lê đạt được, là sự chuẩn bị các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", làm cơ sở cho sự ra đời của Chiếu dời đô và công cuộc định đô ở Thăng Long do Vua Lý Công Uẩn tiến hành vào năm 1010, mở ra thời đại phong kiến độc lập, tự chủ của nước Ðại Việt.
THANH TIÊU