Đó chính là nhân cách, phẩm chất và bản lĩnh của đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt, một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một đảng viên cộng sản kiên trung, trọn đời phấn đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Con người đã dành cho chúng ta lòng yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc ấy đã đi xa, song từ sự kính trọng và gắn bó trong tâm khảm của mình, tôi cảm thấy ông vẫn như đang đồng hành với chúng ta, đang chia sẻ cùng chúng ta mọi buồn vui, đang tha thiết giãi bày tất cả những gì mà ông ấp ủ trong lòng về sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Gần như đi suốt chiều dài lịch sử của cách mạng, từ phong trào Thanh niên phản đế năm 1938, Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, qua 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm đến sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa của đất nước ở chặng đường hôm nay; từ người thanh niên hăng hái nhiệt tình tham gia cách mạng ở quê hương Vĩnh Long giàu truyền thống yêu nước, đến cương vị là ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt luôn luôn là con người của hành động, với tất cả sự sáng tạo mãnh liệt mà ông đã hội tụ không mệt mỏi từ đồng bào, đồng chí và bạn hữu. Nhân cách ấy, bản lĩnh ấy hình thành từ tinh thần hy sinh chiến đấu ngoan cường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và từ niềm tin vững chắc của ông đặt vào cả dân tộc. Những năm tháng gần gũi ông, được cùng làm việc với ông, nhìn vào những việc ông làm và lần theo cách suy nghĩ của ông, tôi ngày càng hiểu rõ chính nhân cách, phẩm chất và bản lĩnh ấy đã làm nên nhân vật lịch sử Sáu Dân - Võ Văn Kiệt.
Con người đã dành cho chúng ta lòng yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc ấy đã đi xa, song từ sự kính trọng và gắn bó trong tâm khảm của mình, tôi cảm thấy ông vẫn như đang đồng hành với chúng ta, đang chia sẻ cùng chúng ta mọi buồn vui, đang tha thiết giãi bày tất cả những gì mà ông ấp ủ trong lòng về sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Nhân cách ấy và bản lĩnh ấy trước hết là sự thấu suốt đường lối của Đảng và sự hình thành sâu sắc ở trong ông về tư duy và ý chí về đại đoàn kết dân tộc. Ông là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đóng góp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là một cống hiến to lớn của ông trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhớ lại những thời kỳ gian nan của cách mạng và kháng chiến cũng như những lúc hiểm nghèo khi mới giành được độc lập, thống nhất, nhìn vào những nhiệm vụ mà ông gánh vác qua những bước thăng trầm của đất nước, chúng ta càng nhận thức sâu sắc tầm quan trọng mang tính sống còn của đại đoàn kết dân tộc đối với vận mệnh của Tổ quốc và càng hiểu ông sâu sắc hơn với tính cách là con người của đại đoàn kết dân tộc.
Ông mang lại cho đồng bào ta gồm cả những người trước đây ở phía bên kia chiến tuyến, lời kêu gọi đồng thuận, hướng về phía trước, cùng nhau xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tất cả vì một Tổ quốc Việt Nam thân yêu ở đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt, đại đoàn kết dân tộc xuất phát từ niềm tin sâu sắc: Yêu nước không là độc quyền của riêng ai; Tổ quốc là của tất cả mọi người Việt Nam; mọi người Việt Nam đều có quyền và trách nhiệm đóng góp cho đất nước. Noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông cho rằng đoàn kết có nghĩa là chung lòng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, vượt lên lên những sự khác biệt, kể cả sự khác nhau về chính kiến. Mãi mãi ghi nhớ và biết ơn những hy sinh, mất mát không kể xiết của dân tộc ta để giành độc lập, thống nhất, chúng ta càng thấm thía về đòi hỏi tất yếu phải đoàn kết hòa hợp dân tộc, phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chúng ta càng quý trọng tấm gương của đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt về đại đoàn kết dân tộc.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, ông luôn có mặt tại chiến trường Nam Bộ, thành đồng Tổ quốc, ở nhiều tỉnh và ở chính tại Sài Gòn, sống giữa lòng dân, đảm đương rất nhiều trọng trách, cùng với đồng bào và chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân vượt qua biết bao gian khổ, ác liệt, hy sinh, lập nên những chiến công hiển hách, đóng góp quan trọng vào chiến công chung vĩ đại của cả dân tộc ta. Tôi muốn đặc biệt nêu lên một cống hiến to lớn vào bậc nhất của ông trong thời gian sau Hiệp định Pari đầu năm 1973, khi ông là Bí thư Khu ủy đồng thời là Chính ủy Quân khu 9. Cùng với Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, ông và Phó Bí thư Khu ủy - Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh đã có một quyết định hành động rất chiến lược, rất dũng cảm và đầy trách nhiệm, phù hợp với tình hình thực tế của chiến trường, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và các lực lượng vũ trang, đó là: Không chấp nhận ngừng bắn khi chính quyền Sài Gòn đã vi phạm Hiệp định; kiên quyết, chủ động và liên tục tấn công lên các mặt trận, ởcả nông thôn và thành thị trong toàn Khu 9 bằng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân. Với quyết định đúng đắn và rất sáng tạo này, quân và dân Khu 9 đã làm thất bại âm mưu lấn chiếm với hàng trăm tiểu đoàn chủ lực, bóc gỡ hàng ngàn đồn bốt, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực của địch và đưa một phần lớn đồng bào ta ra khỏi sự kìm kẹp, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, tạo nên thế và lực mới rất quan trọng, để Khu 9 cùng với cả nước nổi dậy và tiến công giành thắng lợi trọn vẹn - giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc năm 1975. Cán bộ, đảng viên và quân, dân Khu 9 mãi mãi ghi nhớ quyết định lịch sử và chiến công to lớn này gắn liền với vai trò của ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu Sáu Dân - Võ Văn Kiệt.
Ông mang lại cho đồng bào ta gồm cả những người trước đây ở phía bên kia chiến tuyến, lời kêu gọi đồng thuận, hướng về phía trước, cùng nhau xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tất cả vì một Tổ quốc Việt Nam thân yêu ở đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt, đại đoàn kết dân tộc xuất phát từ niềm tin sâu sắc: Yêu nước không là độc quyền của riêng ai; Tổ quốc là của tất cả mọi người Việt Nam; mọi người Việt Nam đều có quyền và trách nhiệm đóng góp cho đất nước.
Trong thời kỳ xây dựng hòa bình, ông luôn quán triệt và hành động rất quyết liệt, sáng tạo về một quan điểm rất quan trọng của Đảng coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Nhiều thành tựu kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới vừa qua là công sức chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đồng thời cũng đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của ông với tính cách nổi bật là sâu sát thực tế, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, cổ vũ và sẵn sàng dấn thân cho cái mới. Từ những đóng góp cả tư duy và hành động cho việc xóa bỏ cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp, hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới đất nước dấn các công trình quan trọng như thủy điện Trị An, khai phá Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, đường dây tải điện 500kV Bắc-Nam, đường Bắc Thăng Long-Nội Bài, đường Hồ Chí Minh, Nhà máy lọc dầu Dung Quất và phát triển ngành dầu khí, viễn thông, hàng không, các tổng công ty lớn của Nhà nước, các đại học quốc gia, các khu công nghệ cao, Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam... tất cả nói lên tâm huyết và những nỗ lực phi thường của ông trong tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, để lại "dấu ấn Võ Văn Kiệt" góp phần xây dựng nền móng kinh tế, văn hóa, xã hội của nước nhà.
Cùng với cái tâm một lòng vì nước, vì dân và sự từng trải, những quyết định sáng suốt của ông dựa trên trí tuệ của không biết bao nhiêu trái tim và khối óc được ông cổ vũ cống hiến cho đất nước. Hầu như không có một quyết định nào của ông ở cương vị người lãnh đạo mà trước đó ông không tập hợp và lắng nghe các chuyên gia, các nhà khoa học và tìm hiểu kinh nghiệm tích lũy từ cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. Ông luôn chân thành, cởi mở khi đến với mọi người, đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ, khuyến khích phát huy tâm huyết và tài năng của thanh niên. Ông coi trọng, chọn lọc và sáng suốt tiếp thu ý kiến của các trí thức Việt kiều và các chuyên gia nước ngoài. Đất nước gặt hái được những thành tựu nhờ sự bừng dậy trí tuệ và tài năng của người người, lớp lớp những công dân gắn bó với sự nghiệp cao cả của Tổ quốc. Đây chính là con đường thực hiện dân chủ mà ông theo đuổi một cách nhất quán để vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ trong suốt cuộc đời hoạt động của mình.
Phá bỏ bao vây cấm vận để chủ động hội nhập toàn cầu là một thời kỳ đầy gian truân, trước những vấn đề rất nhạy cảm cùng với sức ép cạnh tranh rất gay gắt khi nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém. Theo ông, mỗi đất nước có một sức mạnh riêng, một lợi thế riêng; cần khơi dậy và phát huy tất cả các nguồn lực ấy để giành được nhiều nhất lợi ích cho dân tộc mình trong tư thế độc lập, tự chủ. Với quan điểm đó, ở cương vị Thủ tướng hay cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông luôn luôn là người tìm cách tiếp cận mới, góp phần tích cực vào việc hình thành những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, sản phẩm của nước ta đã vươn ra hầu khắp trên thị trường thế giới nước ta có quan hệ ngày càng phát triển với tất cả các nền kinh tế lớn, là bạn của các quốc gia, là thành viên của nhiều tổ chức quan trọng của quốc tế và khu vực. Dấu ấn Võ Văn Kiệt in đậm trên chặng đầu của con đường nâng cao vị thế nước ta như một thành viên có trách nhiệm tích cực và xây dựng trong cộng đồng quốc tế.
Hầu như không có một quyết định nào của ông ở cương vị người lãnh đạo mà trước đó ông không tập hợp và lắng nghe các chuyên gia, các nhà khoa học và tìm hiểu kinh nghiệm tích lũy từ cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. Ông luôn chân thành, cởi mở khi đến với mọi người, đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ, khuyến khích phát huy tâm huyết và tài năng của thanh niên. Ông coi trọng, chọn lọc và sáng suốt tiếp thu ý kiến của các trí thức Việt kiều và các chuyên gia nước ngoài.
Khi thôi giữ trọng cách đứng đầu Chính phủ và ngay cả khi không còn làm nhiệm vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông vẫn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước, vẫn theo dõi sát tình hình, thường xuyên đóng góp ý kiến với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về nhiều vấn đề trọng đại của dân tộc.
Đặc biệt trong những năm cuối đời, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt đã dồn hết nghị lực và tâm trí cho công cuộc xây dựng Đảng. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta luôn luôn xứng tầm là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc, đáp ứng niềm tin của nhân dân, là vấn đề then chốt luôn được ông nêu lên với những kiến nghị cụ thể trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc cũng như trong nhiều sinh hoạt quan trọng khác của Đảng.
Qua một thời gian dài hoạt động trong lòng địch, được nhân dân đùm bọc, che chở từ trước Cách mạng Tháng Tám và suốt hai cuộc kháng chiến, rồi đến những thập kỷ xây dựng đất nước trong Hòa Bình và đổi mới, ông cảm nhận sâu sắc sự gắn bó máu thịt giữa dân và Đảng. Người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam Sáu Dân - Võ Văn Kiệt đã từng nói với đồng chí và đồng đội của mình trong những giờ phút gian nguy nhất, kể cả khi cơ sở bị bóc trắng không còn một người: Còn dân là còn tất cả. Có dân sẽ làm nên tất cả. Đó là cội nguồn vun đắp ý thức sâu sắc về sức mạnh của Đảng khi được nuôi dưỡng trong niềm tin của dân. Trong thời bình xây dựng và bảo vệ đất nước, ông kiên trì nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng mạnh, Nhà nước mạnh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân mạnh để phụng sự tốt nhất lợi ích của dân tộc. Ông thường nhắc nhở phải ghi nhớ và thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc mà Người để lại: Ngay sau khi kháng chiến thành công, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng.
Không biết bao nhiêu lần ông giục giã các đồng chí xung quanh mình, chúng ta hãy cố tìm ra những lời dạy từ lịch sử vẻ vang của Đảng ta: Điều gì đã giúp Đảng chỉ với 5.000 đảng viên mà làm nên Cách mạng Tháng Tám? Điều gì đã giúp Đảng phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc để chiến thắng những kẻ thù xâm lược mạnh nhất thời đại? Điều gì đã khơi nguồn cho Đảng tiến hành công cuộc đổi mới để đất nước vượt qua được hiểm nghèo và có được những thành quả như ngày hôm nay?... Và từ những trải nghiệm thực tiễn của mình, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt luôn nhấn mạnh rằng: Dân chủ phải trở thành một mục tiêu, một động lực quan trọng để xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh về mọi mặt; thực hiện dân chủ trong Đảng là một đòi hỏi cấp bách hàng đầu của sự nghiệp đổi mới và chỉnh đốn Đảng, là điều kiện thiết yếu để thực hiện dân chủ trong xã hội, để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, để đổi mới và nâng cao chất lượng toàn bộ hệ thống chính trị, để nước ta phát triển bền vững trong thế giới ngày nay. Đó cũng là con đường giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, là vũ khí sắc bén nhất trong phòng, chống tham nhũng và mọi tha hóa diễn ra trong Đảng và trong xã hội.
Không ai trong chúng ta có thể ngờ rằng việc chuẩn bị đi thăm Hà Lan để tìm hiểu và học tập kinh nghiệm trị thủy của nước bạn để giúp dân, giúp nước mình nhưng không thực hiện được lại là điều cuối cùng ông để lại trước lúc đi xa. Nỗi niềm tiếc thương và sự kính trọng trong tôi càng nhân lên gấp bội khi nhớ đến những năm tháng ông lặn lội khắp nơi trên đồng bằng sông Cửu Long trời nước mênh mông, quên ăn quên ngủ, trăn trở suy tư để tìm kế sách cho đồng bào ta có thể chung sống với lũ, làm chủ con nước và làm giàu trên vùng đất đai rộng lớn, màu mỡ trước sự đe dọa của thiên tai.
Thấm thoắt một năm đã trôi qua giữa muôn vàn khó khăn thử thách của đất nước. Tưởng nhớ đến ông, noi gương ông và nhân ngày giỗ đầu, xin thắp một nén nhang dâng lên hương hồn đồng chí Sáu Dân -Võ Văn Kiệt với tất cả tâm niệm: Anh Sáu Dân kính mến, xin anh yên lòng; đồng bào và đồng chí của anh đang làm hết sức mình để kế tục hoài bão mà anh để lại, cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa -dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
-------------
* Bài viết nhân kỷ niệm một năm ngày mất của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đăng trên báo Nhân dân, ngày 28/5/2009, tr.1, 2.
1. Xem Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.29.