Nhà ông Sử, bằng gỗ, lợp ngói theo kiến trúc của dân tộc, nằm ở ven đồi, phía sau là khu rừng tái sinh gần 5 ha được xã giao cho gia đình khoanh nuôi bảo vệ. Chung quanh nhà treo đầy đậu tương mới thu hoạch về, vợ và con dâu đang ngồi tách vỏ đậu tương, thấy chúng tôi đến họ chào bằng tiếng Mông: "Co tua à" (Cán bộ đến à).
Ông Sử đang chăm chú làm khèn trong nhà không biết tôi đến. Trong nhà, ông để đầy vật liệu, dụng cụ và những chiếc khèn mới sản xuất. Con dâu pha nước mời khách, lúc đó ông mới dừng tay uống nước.
Ông cho biết: Mỗi năm, bình quân sản xuất 50-60 chiếc khèn, nếu có đủ vật liệu, mỗi ngày có thể làm xong một chiếc. "Tiếng lành đồn xa", khách hàng trong tỉnh, ngoài tỉnh (Sơn La), thậm chí cả bên nước bạn Lào, tự tìm đến nhà để mua. Có ngày ông bán được sáu chiếc, tùy kích cỡ to, nhỏ, giá mỗi khèn từ 250-300.000 đồng.
Khách hàng khi sử dụng khèn của ông đều ca ngợi chất lượng tốt, âm thanh trong, không bị rè, họ giới thiệu nhau đến nhà, ông không phải mang khèn xuống chợ bán. Những người biết sản xuất khèn thường về giao lưu một lần vào ngày 2-9 hằng năm tại các chợ Tủa Chùa, Tuần Giáo. Họ thành lập những nhóm hợp sở thích vừa bán vừa trao đổi, học tập kinh nghiệm và đánh giá chất lượng của từng loại khèn. Ông Giàng A Sử mới một lần đưa khèn xuống chợ Tuần Giáo, được các đồng nghiệp đánh giá tốt và làm khèn có tay nghề cao.
Khèn làm bằng các nguyên liệu ống trúc và ống vầu, trong ống có lưỡi gà bằng đồng, khi thổi trong bầu gỗ, ống bị nén hơi làm rung lưỡi gà gây nên sự chấn động trong không khí phát ra âm thanh ở đầu ống, ống dài phát ra âm thanh trầm, ống ngắn phát ra âm thanh bổng, riêng ống ngắn nhất, to nhất có từ 2-3 lưỡi gà. Mỗi ống có một lỗ thoát hơi được định âm cao thấp khác nhau, mở lỗ thoát hơi ống nào, âm thanh của ống đấy thoát ra, các giai điệu nối kết với nhau thành bản nhạc.
Một cây khèn có sáu ống tương đương với sáu nốt nhạc (rê, pha, son, la, đô, rê và một âm phụ không cố định mi hay pha ở âm vực cao) nốt rê có hai nốt đồng âm bè quãng 8 đệm cho giai điệu thêm sinh động khi tấu khèn. Bầu khèn còn gọi là thân, làm bằng gỗ pơ mu hoặc bằng cây thông đá (loại gỗ này nhẹ không bị nứt và có mùi thơm). Ðai quấn quanh ống làm bằng vỏ cây đào rừng có mầu nâu bóng, vừa làm trang trí, vừa có tác dụng giữ các ống và thân khèn nối kết với nhau.
Ông Sử cho biết: Trước kia, vật liệu sẵn không phải đi xa, nay vật liệu để làm khèn khan hiếm, đi hàng tuần mới lấy đủ. Cây trúc ở đây gọi là cây sặt, thường lấy ở Si Pa Phìn (Mường Chà), ống tre, loại tre vầu "Shôngz tôs trưv" lấy tại chỗ. Cây tre và cây trúc phơi khô treo trên gác bếp, để càng lâu càng bền, phân loại to, nhỏ, sau đó cho vào lửa hơ nóng để uốn theo chiều cong của khèn. Vỏ cây làm đai quấn (Tởpi zơl) là cây đào rừng thường ra hoa vào tháng 2 dương lịch, lấy ở núi đá Lao Xả Phình (Tủa Chùa), bóc lấy vỏ, để khô tự nhiên dùng dần. Gỗ cây pơ mu lấy ở Pa Ham (Mường Chà).
Kim loại đồng để làm lưỡi gà lấy từ các vật liệu vỏ đạn, khóa đồng, xu đồng, cán dao... nấu lại bằng than củi, dùng bát đất sét cho đồng vào đun khi nào đồng chảy ra mới đổ vào khuôn dàn mỏng. Khi làm, cắt đồng ra từng đoạn, nung đỏ, dùng búa dát mỏng gọi là đồng hưởng.
Vào mùa khô hanh, do độ co giãn của khèn dễ làm các ống ghép bị hở, khi sử dụng xong đổ vào một chút rượu, tránh mốc và thơm. Các ống trúc hay bị tò vò làm tổ, đẻ con trong ống, nên dùng vải quấn kín, treo cất cẩn thận. Tất cả những bí quyết ông đều truyền đạt lại với khách hàng. Ngoài làm khèn, ông còn làm các loại sáo dọc, sáo ngang, khèn môi, làm đến đâu tiêu thụ đến đấy.
Ông Giàng A Sử nay tóc đã điểm bạc, nhưng hình ảnh chàng trai Mông ngày xưa 20 tuổi biết làm khèn, làm sáo, vẫn lưu giữ trong câu chuyện của làng, của bản. Khèn do ông làm giúp cho các thế hệ thanh niên, dùng tiếng khèn để kể chuyện và tiếng sáo để tỏ tình. Ông Sử đã góp phần vào việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc.