Nhật ký “Tài hoa ra trận”: Niềm kiêu hãnh thiêng liêng

Nhật ký “Tài hoa ra trận”: Niềm kiêu hãnh thiêng liêng

Tháng 10-2005, Nhà xuất bản Hội Nhà văn lại xuất bản một cuốn sách trong tủ sách "Mãi mãi tuổi hai mươi" mà trước khi ra đời, nó đã được truyền tụng. Ðó là cuốn "Tài hoa ra trận" rút từ tám cuốn nhật ký chiến trường của liệt sĩ Hoàng Thượng Lân.

Nếu Nguyễn Văn Thạc đại diện cho lớp thanh niên sinh viên ra trận với đầy ắp những ước mơ và mối tình lãng mạn; bác sĩ Ðặng Thùy Trâm đại diện cho giới khoa học với một sứ mệnh cao cả gắn sự nghiệp cá nhân trong sự nghiệp lớn lao của dân tộc, trong tình yêu thương con người và đất nước quyện chặt vào nhau ở thời khắc tiêu biểu nhất trên vùng đất khốc liệt thử thách vàng đá của lòng người thì Hoàng Thuợng Lân, đại diện cho lớp văn nghệ sĩ vào chiến trường ở tư thế của một người lính thực thụ.

Liệt sĩ Hoàng Thượng Lân, còn có tên là Lâm, quê Hà Tĩnh, lớn lên ở Hà Nội, là con trai của nhà báo Hoàng Nguyên Kỳ, nguyên Thư ký tòa soạn Báo ảnh Việt Nam, dịch giả của nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng như Tự do hay là chết, Xa Mạc-tư-khoa... rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam một thời.

Hoàng Thượng Lân sinh năm 1946, là sinh viên Trường Mỹ thuật Hà Nội, cùng khóa với các họa sĩ Thành Chương, Lê Trí Dũng…

Năm 21 tuổi, anh xung phong vào bộ đội, biên chế trong tiểu đoàn 395, thuộc sư đoàn 320B và vào nam ngay sau ba tháng huấn luyện, chiến đấu trên mặt trận Quảng Trị nóng bỏng nhất.

Tôi đi ra từ khói bom. Tôi đã từng đọc những tác phẩm văn học về chiến tranh cách mạng như Mẫn và tôi, Dấu chân người lính, Ðất Quảng, Ðất trắng... nhưng khi đọc nhật ký của Hoàng Thượng Lân, tôi mới thấy đây là những trang viết thật sự  nóng hổi về người lính của người lính, chân thực và vĩ đại như nó vốn có.

Ðau thương và tin tưởng, hèn nhát và anh hùng ở chiến trường đều bật ra như đạn, như máu. Không cần thêm thắt, tô vẽ gì cho một sự thật như vậy, đúng như Hoàng Thượng Lân đã viết: "Sự thật ở đây, mình vẫn còn chưa đủ lời để diễn tả cho người ta hiểu được cái khốc liệt, cái dũng cảm quyết tử của mỗi con người sống bám lấy mảnh đất chiến đấu này. Mình tôn trọng sự thật. Giả dụ một nhà văn có nhiều khả năng hư cấu thì đến đây, anh ta cũng khó lòng mà hư cấu hơn được nữa. Bởi vì thực tế đã thần kỳ, đã vĩ đại quá rồi".

Tôi cảm thấy cái tên cuốn sách "Tài hoa ra trận" nhẹ quá, không đúng với tính cách Hoàng Thượng Lân và những gì anh đã viết mà phải là Máu lửa, Bài ca người lính, hay đúng nhất như chữ dùng của Hoàng Thượng Lân là Niềm kiêu hãnh thiêng liêng.

Hoàng Thượng Lân  không chỉ có con mắt quan sát tinh tế và tài chấm phá của một họa sĩ mà anh có con mắt từ một trái tim tha thiết mến yêu con người và cuộc sống, biết cảm nhận từ đáy sâu của hiện thực, nên trong nhật ký của mình, Hoàng Thượng Lân có những nét chấm phá tự nhiên mà xúc động, giản dị mà có sức khái quát cao.

Chẳng hạn, với những làng đi qua, anh thấy :

"Có những bà mẹ thức suốt đứng nhìn theo đoàn quân rầm rập đi qua. Hỏi sao mẹ chưa đi ngủ, mẹ bảo: "Mẹ thương các con quá, mẹ không nỡ ngủ khi mà các con hãy còn đây".

Có lúc, đơn vị hành quân tới trạm, phân tán vào nhà dân để ổn định nơi ngủ, thấy nhà rộng rãi, vắng vẻ, xuống bếp vơ ít rơm rạ đun nước ngâm chân thì lại sờ phải người đang nằm trong đó. "À ra thế ! Họ nhường nhà trên cho bộ đội ngủ".

Người lính ra trận do đó cảm thấy rất cụ thể: "Chúng ta đang đi đấy, nhưng không phải riêng gì chúng ta. Cả miền bắc đang đi, ngày và đêm lúc nào cũng đi".

Tuy không lớn lên ở quê hương nhưng khi hành quân qua sông La, Hoàng Thượng Lân đã vô cùng xúc động "Quê hương, hai tiếng đó đối với mình giờ đây sao thân thiết vậy. Có phải bởi lúc bước sang đất Hà Tĩnh, một buổi hoàng hôn ánh hồng lấp lánh, những mái chèo, những giọng hò khoan nhịp với bến đò mang tên Linh Cảm?".

Người chiến sĩ của chúng ta ra đi như vậy, trong một lý tưởng lớn một tình cảm lớn và những tình cảm riêng nóng bỏng . Ðó là quê hương, gia đình, bạn bè.

Trong nhật ký, Hoàng Thượng Lân nói nhiều về danh dự của bản thân và gia đình. Người lính của chúng ta là một người lính có danh dự, có ý thức chứ không phải bị "nhồi sọ" như những kẻ  bụng đen mắt tối đến nay vẫn cố tình rêu rao hòng lung lạc tinh thần lớp trẻ và xuyên tạc lịch sử. Không ! Tuổi trẻ Việt Nam không thể bị lung lạc.  Cuộc đời vẻ vang và những dòng nhật ký chân thực của  các liệt sĩ luôn rọi sáng  lý tưởng của chúng ta, làm tan chảy những lớp băng đê hèn của sự vu cáo và thóa mạ lịch sử, thóa mạ anh linh dân tộc.

Hoàng Thượng Lân từng bị thương cụt ngón tay cái bên phải và mỗi ngày kề cận nhiều lần cái chết. Trong trận chiến đấu ác liệt ngày 5-3-1968 ở xóm Ðại Ðộ, Quảng Trị, riêng anh đã diệt bốn tên xâm lược Mỹ và được phong tặng Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 3.

Ngày 4-11-1968, anh được tặng thưởng Huân chương Giải phóng. Năm 1970, anh được điều ra miền bắc. Năm 1969, giữa chiến trường, anh viết: "Ba mẹ ơi, giờ đây, con cứ muốn được về nhà, con sẽ lê đôi chân của mình (vì mệt mỏi lắm rồi) leo lên cầu thang, gõ cửa phòng 48, con sẽ khuỵu xuống cửa nhà và ... con sẽ òa lên khóc !...".

Thế mà khi ra bắc rồi, có những bài viết và tác phẩm được đăng trên báo Nhân Dân, báo Quân đội Nhân dân; được gợi ý ở lại công tác tại báo Quân đội Nhân dân, được cấp trên cử đi học văn hóa để thi vào đại học Kiến trúc, thế mà Lân đã chọn con đường khác: trở vào nam chiến đấu, trở vào nơi anh đã biết gian khổ thiếu thốn, cả đất đá cũng bị xay nhỏ và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Và anh cũng biết, cũng cháy lòng khi biết bố mẹ sẽ khổ  như thế nào trước cái chết của anh... Nhưng anh đã lại ra trận, chọn một cuộc sống có ý nghĩa nhất vào lúc đó.

Và vào một ngày tháng 10-1971, khi đang vượt sông Xê-băng-hiêng, một chùm bom B.52 tọa độ đã cướp đi sinh mạng Hoàng Thượng Lân, một người lính dũng cảm, một tài năng nhiều mặt và dòng nước Xê-băng-hiêng đã cuốn trôi tập bản thảo cuối cùng của anh. Có thể đó đã là những trang viết hay nhất của Hoàng Thượng Lân, một tác phẩm được hun đúc bởi sự dạn dày trận mạc và độ chín tài năng mà mãi mãi không bao giờ chúng ta được đọc.

Nhưng chỉ những trang viết còn lại của anh hôm nay thôi, tôi nghĩ rằng cũng đã đủ làm cho anh sống mãi trong lòng bạn đọc. Không chỉ gia đình anh , mà tôi tin rằng, tuổi trẻ không bao giờ quên được lời dặn dò thấm thía của anh, không quên rằng một ngày, dù chỉ một ngày thanh bình của cuộc sống hôm nay cũng xiết bao đáng quý, sống sao cho xứng đáng với những người đã ngã xuống vì nó:

 “Con đang chiến đấu, đang bắn vào đầu quân thù dữ dội. Ðã hai trận rồi ba mẹ ạ. Nhiều lúc con cứ tưởng như con đang mơ chứ không phải sự thật nó thế này. Con đã xác định kỹ rồi. Con biết con có thể sẽ chết, sẽ không bao giờ trở về với gia đình nữa bởi bom đạn ở đây khốc liệt quá. Lực lượng chiến đấu chênh lệch nhau quá. Bên ta chỉ hơn nó về mặt dũng cảm, mưu trí và tháo vát. Còn nó, nó nổ đạn như mưa, bắn không biết bao nhiêu mà kể nữa. Nhưng dù con có chết cũng là một vinh dự lớn cho gia đình. Con không chết ô nhục đâu. Nơi đây con tìm cái chết quang vinh, cái chết tô thắm nét sử vàng dân tộc... Tình yêu Tổ quốc lúc này đối với con vô cùng rộng lớn, vô cùng tha thiết. Tất cả những gì đã phải mất máu xương mới giành giật được, sau này, ba mẹ nhớ nói với các em phải biết quý trọng, nâng niu bởi một phần máu xương trong đó là của con nữa  (ngày 8-2-1968).

... Sau này, nếu chúng ta không nói lại một cách đầy đủ những gian khổ hy sinh của chúng ta cho con cháu biết và thấm thía hết, thì mỗi chúng ta đây, đều tự có lỗi với mình !".

Mình thấy Ngật nói đúng quá và muốn thêm rằng: "Có lỗi cả với những người đã ngã xuống, không bao giờ trở về nữa" (Ngày 30-5-1969).

Có thể bạn quan tâm