Nghệ sĩ Lý Huỳnh: Phim lịch sử, Nhà nước hay tư nhân làm cũng khó

NDĐT - Là một gương mặt quen thuộc trong giới làm phim lịch sử, nhưng nghệ sĩ Lý Huỳnh vẫn thừa nhận, đây là dòng phim làm cực khó, kể cả đối với các hãng phim Nhà nước và tư nhân. Bộ phim Tây Sơn hào kiệt của hãng phim Lý Huỳnh thực hiện năm ngoái, khi ra rạp cũng vấp phải không ít khen chê của báo giới. Ông coi đó là kinh nghiệm sâu sắc cho những bộ phim sau này, và không từ bỏ ước mơ làm phim về những nhân vật lịch sử của Việt Nam.

- Là một trong những hãng phim tư nhân hiếm hoi trong nước làm phim về đề tài lịch sử, vậy qua những bộ phim đã thực hiện, ông thấy điện ảnh tư nhân gặp phải những khó khăn gì?

- Năm 1993, tôi mở hãng phim tư nhân đầu tiên ở Việt Nam. Những bộ phim hãng từng thực hiện, thực ra cũng chưa dám nhận là phim lịch sử, mà chỉ là dã sử thôi, là những câu chuyện hư cấu dựa trên nhân vật và sự kiện có thật như Lửa cháy thành Đại La, Thăng Long đệ nhất kiếm... Năm 2010, bộ phim Tây Sơn hào kiệt với số vốn đầu tư lên tới 12 tỷ đồng ra đời, đó là công sức và tâm huyết của tất cả mọi người trong hãng. Phim hoàn toàn không có tài trợ, mà do gia đình bỏ tiền ra. Để thu đủ vốn, không chỉ chiếu ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, mà còn phải mở rộng ra các tỉnh, in đĩa DVD, bán phim ra nước ngoài cho bà con Việt kiều xem... Huề vốn là may lắm rồi. Nhà nước làm phim lịch sử khó khăn một, thì tư nhân làm khó khăn trăm lần. Phải tự lo liệu, tính toán từ cái nhỏ nhất trở đi, mọi chi phí phải cân đo đong đếm từng li từng tí.

Làm phim lịch sử, tốn kém không biết bao nhiêu lần so với phim đề tài hiện đại, đặc biệt là chi phí cho bối cảnh, phục trang. Chỉ nói riêng Tây Sơn hào kiệt, chi phí may trang phục cho các diễn viên đã lên tới 1,2 tỷ đồng, một cây kiếm của vua Quang Trung cũng mất 15 triệu đồng, lấy mẫu từ cây kiếm trong Bảo tàng Quang Trung. Tư liệu về bối cảnh, phục trang cũng không có, rất thiếu thốn. Tôi phải ra Bình Định hàng chục lần để tìm hiểu, nghiên cứu các loại trang phục ở thời vua Quang Trung như thế nào, vừa tìm trong Bảo tàng Quang Trung, vừa tìm trong sách vở, tư liệu... Chúng tôi phải chụp hình tỉ mỉ từng chi tiết để đem về cho thợ theo đó mà làm. Phim hoàn thành, lại phải đem sang in tráng và làm hậu kỳ ở Hồng Công, chi phí hết khoảng 2 tỷ. Làm phim lịch sử, tìm hiểu đề tài đã khó, lại tốn kém và phải lo chỉnh chu tỉ mỉ từng chi tiết nên ít ai dám làm.

- Còn những khó khăn về bối cảnh khi điện ảnh Việt Nam chưa có một trường quay hoàn chỉnh, thưa ông?

- Chúng tôi đi quay ngoại cảnh ở Bình Định, Bình Dương và rất may mắn là được các địa phương hỗ trợ rất nhiều, cả về địa điểm và nhân lực. Khi họ biết tôi làm phim về vua Quang Trung, họ giúp đỡ hoàn toàn vô tư, chỉ vì tình cảm đối với vị anh hùng dân tộc. Chúng tôi đã may mắn tìm được và quay cảnh Nguyễn Huệ khởi binh ngay chính tại địa điểm nơi ông tập họp nghĩa binh. Tôi nghĩ nếu có trường quay thì đoàn làm phim sẽ rất chủ động xây dựng bối cảnh theo đúng ý mình. Mượn cảnh quay ở ngoài, có hàng trăm thứ phải đối phó, mà mọi việc không phải lúc nào cũng thuận. Nói chung là rất khó và tốn kém nếu không có trường quay.

- Tốn kém và đầu tư nhiều công sức như vậy, nhưng dường như phim lịch sử chưa thu hút khán giả lắm?

- Đúng vậy. Phim lịch sử làm ra không phải đáp ứng được thị hiếu của số đông khán giả bây giờ. Thanh niên chỉ thích xem phim hài, tình cảm lãng mạn, phim hành động hiện đại... Phim Việt Nam ra rạp hiện nay, dù đã khá hơn rất nhiều nhưng cũng phải vật lộn để cạnh tranh với phim Mỹ, phim Hàn, huống hồ là một dòng phim “hoài cổ” như phim lịch sử. Nhưng thú thực là dù vậy thì tôi vẫn muốn làm, bởi vì phim lịch sử là cách tốt nhất để giúp cho thế hệ sau hiểu hơn, yêu và tự hào hơn về lịch sử oai hùng của cha ông mình.

- Khi Tây Sơn hào kiệt ra rạp, cũng đã có những phản ứng về những chi tiết chưa chính xác của phim. Ý kiến của ông về việc này như thế nào?

- Làm phim cũng như làm dâu trăm họ thôi. Tư liệu chúng tôi có trong tay quá ít ỏi, mặc dù đã nghiên cứu rất kỹ qua nhiều nguồn, nhưng không thể tránh khỏi những sơ suất. Khi làm Tây Sơn hào kiệt, tôi đã phải đề là phim dã sử chứ không phải lịch sử. Phần võ thuật của phim, chúng tôi đã đầu tư hết sức công phu, mời võ sư Lê Kim Hoà, Chủ tịch hội võ cổ truyền Việt Nam về chỉ đạo võ thuật, cùng với một võ sư trưởng bộ môn võ Tây Sơn Bình Định của trung tâm TDTT Bình Định. Hơn 800 võ sinh Bình Định cũng được huy động vào trình diễn trong phim.

Làm nghệ thuật cũng như làm dâu trăm họ, phải chấp nhận cả khen và chê, rồi từ đó rút kinh nghiệm. Những giãi bày của tôi cũng chỉ là để mọi người hiểu hơn. Phim dã sử không phải tài liệu, và có quyền hư cấu một vài chỗ. Tôi nghĩ rằng phim lịch sử, dã sử bây giờ ít người làm, nhất là các nhà làm phim tư nhân, vì thế nên khuyến khích hơn là chê. Phim Tây Sơn hào kiệt sau khi xuất hiện những bài báo phê bình, doanh thu sụt hẳn có khi tới 50%.

Tuy nhiên, niềm tự hào của tôi là phim đã được đưa vào chương trình chiếu phim mừng Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long và nhiều dịp kỷ niệm khác. Ngoài ra phim còn được 10 bằng khen của UBND TP Hồ Chí Minh, đồng thời được Trung tâm sách Việt Nam xác nhận kỷ lục là phim truyện nhựa võ thuật quy mô hoành tráng nhất. Nếu phim dở, chắc cũng không được quan tâm đến thế.

- Sau Tây Sơn hào kiệt, ông có đang ấp ủ cho những dự án phim lịch sử nào không?

- Mong ước lớn nhất trong đời tôi là làm phim về các nhân vật lịch sử của Việt Nam như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Bà Triệu... Chúng ta có một lịch sử đáng tự hào, tại sao lại không thể làm phim về họ. Chúng tôi vẫn đang nghiên cứu, và chắc chắn sẽ tiếp tục làm phim lịch sử.

- Xin cảm ơn ông và chúc ông thành công.

Có thể bạn quan tâm