Nâng cao giá trị ngành cơ khí trong phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam

NDO - Ngày 19/12, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phối hợp Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí (VAMI), Tổng hội Cơ khí Việt Nam tổ chức hội thảo “Ngành công nghiệp cơ khí với việc phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam”.
0:00 / 0:00
0:00
Toàn cảnh hội thảo.
Toàn cảnh hội thảo.

Con số hơn 111 tỷ USD kinh phí đầu tư cho ngành đường sắt Việt Nam trong thời gian tới là rất lớn. Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp cơ khí chế tạo trong nước nắm bắt được “cơ hội vàng” này, tạo công ăn việc làm trong nước và thúc đẩy ngành cơ khí phát triển?

Tiềm năng còn rất lớn

TS. Phan Đăng Phong, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí (Bộ Công Thương) nhận định, theo quy hoạch mạng lưới đường sắt Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng mức đầu tư khoảng gần 62 tỷ USD; tương tự theo quy hoạch với tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội, tổng mức đầu tư trong tương lai khoảng 37 tỷ USD; tuyến đường sắt đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ khoảng 12,6 tỷ USD. Như vậy, tiềm năng cho phát triển ngành đường sắt đô thị trong nước là rất lớn. Đây cũng là cơ hội vàng cho các doanh nghiệp cơ khí chế tạo trong nước nếu biết nắm bắt.

Nâng cao giá trị ngành cơ khí trong phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam ảnh 1

TS. Phan Đăng Phong, Viện trưởng NARIME trình bày tại hội thảo.

Theo ông Phong, nếu có các cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển hợp lý đối với ngành công nghiệp đường sắt, tỷ lệ nội địa hóa có thể đạt khoảng 80%. Đây là một thị trường rất lớn, đang bị bỏ ngỏ cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Các doanh nghiệp cơ khí trong nước thường không được tham gia hoặc tham gia rất hạn chế. Đồng thời, ngành cơ khí chế tạo thiết bị trong lĩnh vực đường sắt gần như chưa có và không thể phát triển được.

Mặc dù vậy, ngành cơ khí chế tạo trong nước cũng có nhiều “điểm sáng” trong công tác nội địa hóa thiết bị trong nước. Một số doanh nghiệp trong nước đã thực hiện các công việc với mức độ khó tương tự như tổng thầu EPC các dự án nhiệt điện than, nhiệt điện, điện khí, thủy điện như Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA), Công ty Cổ phần Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI), Viện Nghiên cứu Cơ khí (NARIME)…

Cụ thể, các đơn vị trong nước đã tự chủ trong việc thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công cho hơn 29 công trình thủy điện vừa và lớn trong nước, trong đó có công trình thủy điện Sơn La (2.400 MW) và Lai Châu (1.200 MW). Hay tại dự án Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu 1 công suất 1.200MW (Hậu Giang) do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) làm chủ đầu tư, LILAMA làm tổng thầu EPC đã hoàn thành sau hơn 7 năm thi công, đánh dấu sự trưởng thành về cả bàn tay lẫn khối óc của kỹ sư và công nhân trong nước trong việc vươn lên làm tổng thầu EPC các dự án lớn, trọng điểm của đất nước.

Tạo dựng thị trường cho doanh nghiệp cơ khí trong nước

TS. Phan Đăng Phong cho rằng, cần xây dựng một cơ chế, chính sách để cụ thể hóa vấn đề này như đầu tư tăng cường các cơ sở vật chất hiện có để đủ khả năng thực hiện đóng mới, sửa chữa các thiết bị ngành đường sắt; lựa chọn một số nhà thầu phù hợp để thực hiện EPC tại Việt Nam kèm theo điều kiện nội địa hóa thiết bị theo tiến trình; chuẩn hóa lại các tiêu chuẩn quản lý, phần mềm quản lý chạy tàu để có sự thống nhất chung giữa các tuyến; xây dựng các cơ chế ưu đãi khác để khuyến khích nội địa hóa các thiết bị…

Nâng cao giá trị ngành cơ khí trong phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam ảnh 2

Chủ tịch VAMI TS Nguyễn Chỉ Sáng phát biểu tại hội thảo.

Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam VAMI, TS. Nguyễn Chỉ Sáng cũng cho rằng, Việt Nam nhất thiết phải làm chủ việc xây dựng, phát triển hệ thống đường sắt. Việc làm chủ ở đây không nên cứng nhắc là phải làm chủ 100% mà có tỷ lệ nội địa hóa và việc nhận chuyển giao công nghệ thích hợp.. Việc này không chỉ đem lại sự tự chủ trong xây dựng các dự án mà còn làm giảm đáng kể giá thành trong giai đoạn thi công xây dựng, duy tu bảo dưỡng và phát triển công nghiệp nước nhà.

Ông Sáng cũng cho rằng, Việt Nam có khả năng làm chủ các hạng mục trong việc phát triển hệ thống đường sắt như tư vấn thiết kế có thể đảm nhận 50% trong 3 dự án đầu và 80% trong các dự án tiếp theo; quản lý dự án: 70% trong 2 dự án đầu và 90% trong các dự án tiếp theo; các hạng mục xây dựng công trình 80% trong dự án đầu và 95% trong các dự án tiếp theo; về hệ thống thiết bị 40% cho hai dự án đầu và 50-60% cho các dự án tiếp theo; về khai thác vận hành và duy tu bảo dưỡng 100% với sự chuyển giao công nghệ của nhà cung cấp theo hợp đồng cung cấp thiết bị, công nghệ…

VAMI kiến nghị những việc cần làm ngay, cụ thể là xây dựng hệ thống tiêu chuẩn cho ngành đường sắt; xây dựng lộ trình tổng thể, thống nhất để nội địa hóa hệ thống đường sắt: đường sắt cao tốc, đường sắt quốc gia và đường sắt nội đô; xây dựng và ban hành các giải pháp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào Chương trình phát triển hệ thống đường sắt...

Đồng thời, tổng hợp ý kiến tại hội thảo để gửi đến các bộ ngành liên quan nhằm sớm thúc đẩy công tác nội địa hóa thiết bị ngành đường sắt đô thị và lấy lại thị phần cho ngành cơ khí chế tạo trong nước.

Xét một cách tổng quan hơn, để ngành cơ khí chế tạo trong nước có thể tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu nói chung và ngành đường sắt đô thị nói riêng, vai trò của Nhà nước như một “bà đỡ” rất quan trọng.

Chủ tịch Tổng hội Cơ khí Việt Nam Đỗ Hữu Hào đề xuất, Nhà nước phải tạo ra thị trường và bảo vệ thị trường nội địa cho các doanh nghiệp cơ khí trong nước thông qua các luật và văn bản dưới luật; sớm sửa lại Luật Đấu thầu theo hướng có lợi hơn cho các đơn vị trong nước; có quy định mới về tài chính để doanh nghiệp dễ tiếp cận hơn, nhất là đối với doanh nghiệp cơ khí với đặc thù cần nguồn vốn dài hạn, lãi suất thấp; tạo điều kiện đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp...

Cụ thể hơn, Tổng giám đốc LILAMA Lê Văn Tuấn, Phó Chủ tịch VAMI mạnh dạn đề nghị, Nhà nước, Chính phủ cần có cơ chế riêng, rõ ràng đối với các sản phẩm cơ khí sản xuất được trong nước.

Nhà nước cần ban hành Nghị định quy định tất cả các hàng hóa, thiết bị vật tư trong nước đã sản xuất được thì không cho phép nhập khẩu. Công tác này phải được bổ sung, quản lý, giám sát chặt chẽ ngay từ giai đoạn lập, quy hoạch và phê duyệt dự án đầu tư cũng như bổ sung trong Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu…