Lưỡng quốc Trạng nguyên đầu tiên của Ðại Việt

Trạng nguyên Mạc Ðĩnh Chi đi sứ sang Trung Quốc, do có khí phách kiên cường, tài ứng đối mẫn tiệp trước triều đình nhà Nguyên, khiến vua tôi nhà Nguyễn rất thán phục.

Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), người xã Lũng Ðộng, huyện Chí Linh, nay là thôn Lũng Ðộng, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, hai mẹ con phải đi vào rừng kiếm củi để kiếm sống hàng ngày. Không mấy lúc Mạc Ðĩnh Chi ngơi đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách, kể cả lúc gánh củi đi bán. Không có tiền mua nến để đọc sách, Mạc Ðĩnh Chi đốt củi, hết củi lấy lá rừng đốt lên mà học. Câu chuyện lý thú nhất là bắt nhiều đom đóm cho vào vỏ trứng để lấy ánh sáng thay đèn mà học. Mạc Ðĩnh Chi nổi tiếng thần đồng cả xứ Hải Ðông.

Khoa thi Giáp Thìn (1304), thi hội, Mạc Ðĩnh Chi đỗ Hội nguyên, thi đình ông đỗ Trạng nguyên. Khi vào ra mắt nhà vua, vua Trần Anh Tông thấy ông tướng mạo xấu phân vân không muốn lấy ông đỗ đầu. Biết ý, ông đã làm bài Ngọc tỉnh liên phú bằng chữ Hán để gửi gắm chí khí của mình. Vua Trần Anh Tông xem xong khen là thiên tài mới cho đậu Trạng nguyên, ban cho chức Hàn lâm học sĩ, sau thăng dần đến chức Thượng thư, rồi Ðại liêu ban Tả Bộc Xạ (tương đương Tể tướng).

Năm Ðại Khánh triều vua Trần Minh Tông (1314 - 1329), Mạc Ðĩnh Chi được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Trong quá trình đi sứ, ông đã chứng tỏ tài năng ngoại giao và tầm trí tuệ siêu việt, khiến vua tôi nhà Nguyên rất khâm phục. Chuyện kể lại rằng: ngay lần gặp mặt đầu tiên, vua quan nhà Nguyên tự ví mình như mặt trời đỏ, ra vế đối ý:

Nhật hỏa, vân yên, bạch đản thiêu tàn thỏ ngọc.

(Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng).

Mạc Ðĩnh Chi đối lại:

Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô.

(Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời).

Vua khen:

- Quả là danh bất hư truyền. Lời đồn đại về tài năng của ngươi thật chẳng ngoa. Rồi sai đem rượu ngon và nhiều vàng bạc ra tặng thưởng cho ông.

Lần khác, trong một phiên chầu, sứ giả nước ngoài dâng vua Nguyên một chiếc quạt quý. Vua sai các sứ thần làm bài vịnh chiếc quạt. Sứ Ðại Việt đã nhanh chóng làm một bài thơ rất hay, có khí phách lớn và chữ nghĩa đối nhau rất tài tình.

Nguyên Thành Tổ xem xong rất khen ngợi. Ông ta đã phê vào bài thơ 4 chữ "Lưỡng quốc Trạng nguyên" và tự tay trao văn bằng cho Mạc Ðĩnh Chi.

Khi đoàn sứ giả nước ta chuẩn bị về nước thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra: Công chúa nhà Nguyên qua đời, vua Nguyên sai sứ thần của mình đến gặp Mạc Ðĩnh Chi nhờ ông đọc bài điếu, Mạc Ðĩnh Chi nhận lời.

Tang lễ được cử hành rất linh đình. Ðến ngày làm lễ an táng công chúa. Mạc Ðĩnh Chi được mời vào cung. Ông được một viên quan long trọng nâng hai tay ngang đầu chuyển cho ông bài điếu văn.

Một sự kiện cổ kim có một không hai đã xảy ra: bài điếu văn chỉ có một chữ "Nhất" rất to.

Trước sự việc như vậy, Mạc Ðĩnh Chi không hề bối rối vì ông biết chắc chắn thế nào triều đình cũng thử tài mình. Sau một thoáng suy nghĩ, ông đọc sang sảng, lâm ly bài điếu có nghĩa:

Trời xanh có một đám mây
Trong bầu vũ trụ có một điểm tuyết
Trong vườn thượng uyển có một cành hoa
Cung Quảng Hàn có một vầng trăng
Than ôi! Mây đã tan, tuyết đã tan, hoa  đã tàn, vầng trăng đã khuyết.

Mạc Ðĩnh Chi làm quan qua ba triều vua: Trần Anh Tông (1293 - 1314), Trần Minh Tông (1314 - 1329) và Trần Hiến Tông (1329 - 1341), đứng đầu triều, khi làm quan ông nổi tiếng trung thực và thanh liêm, nhưng khi tuổi cao về hưu chỉ có nếp Từ Ðường nhỏ bé mà thôi, thường ngày ông vẫn ra ngồi nơi quán lá ngoài đồng uống bát nước vối, chuyện trò thân mật với dân làng, sống thanh bạch, giản dị như những người dân quê.