Mỗi lần nhắc đến lại thấy mình đang mắc nợ, mắc nợ một câu thơ hay, mắc nợ một vùng đất đẹp. Và rồi cuối cùng không còn chần chờ thêm được nữa, tôi đã quyết làm một chuyến Tây tiến.
Ðoàn binh ngày trước Tây tiến vào mùa xuân, chúng tôi Tây tiến vào mùa đông, mùa của mưa của lũ, của sụt đường, đá lở... Nhưng mặc, đã quyết rồi thì đi, chần chờ thêm nữa e rằng có lỗi với bản làng xa xôi, có lỗi với những điệu khèn Mông, những điệu xòe Thái, với những đêm lăm vông. Từ Hà Nội lên đến huyện Quan Hóa (Thanh Hóa) coi như một cuộc dạo chơi, nhưng từ huyện Quan Hóa vào Mường Lát thì đúng là bắt đầu một cuộc thử sức, thử chí của người đi. Ðúng là: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời".
Xe ô-tô vào chưa hết địa phận xã Hồi Xuân của huyện Quan Hóa thì đã phải dừng lại. Ðêm qua có trận mưa rừng, suối Luồng quặn lên như người đau bụng cấp, cả trái núi đổ ập xuống. Tắc đường là chuyện thường ngày ở đây. Tôi nghe ai đó nói: "Muốn lên Mường Lát thì phải có kế hoạch tuần và cộng trừ hai ngày, chứ kế hoạch ngày thì đằng nào cũng lỡ việc". Bây giờ đứng trước khối đất đá đỏ quạch vừa đổ xuống lấp đường đêm qua mới thấy điều đó đúng quá. Ðã lên đến đây thì không thể quay lại. Nhưng chẳng lẽ cuốc bộ? Ðang ngán ngẩm chưa biết làm thế nào thì anh bạn tôi sáng ý nói: "Hay ta thuê xe ôm?". Ðúng rồi hơn trăm cây số, chỉ có xe ôm là khả dĩ!
Chẳng bao lâu, hai con ngựa sắt chở bốn chúng tôi đã phì phò đón gió Cổng Trời. Ðường dốc khúc khuỷu, mây sà xuống tận mặt mát rười rượi bồng bềnh như đang ở chốn thần tiên vậy. Tôi đang thả hồn với mây trời gió đại ngàn thì bỗng xe dừng lại, khi ấy mới kịp nhận ra, phía trước mặt có một cô gái đang vẫy. Lạ, giữa cái chốn đèo heo hút gió này lấy đâu ra một sơn nữ đẹp lạ đẹp lùng vậy không biết. Mà sao lại đứng một mình nơi đây vẫy xe? Hay là... hay là?... Phải đến Mường Lát, làm việc với đồng chí Thượng tá Lê Thanh Nghị, Trưởng Công an huyện Mường Lát, những điều băn khoăn của tôi mới được giải đáp. Anh Nghị bảo, ở đây không hề có tệ nạn mại dâm. Chẳng những vậy mà các tệ nạn như cướp, trấn lột, án mạng... cũng rất ít khi xảy ra ở Mường Lát mặc dù nơi đây vốn là cái rốn của ma túy, tỷ lệ người nghiện hút khá cao. Cũng đúng thôi, Mường Lát trước đây là vương quốc của cây thuốc phiện, điều kiện thổ nhưỡng rất thích hợp cho cây thuốc phiện phát triển. Từ năm 1996 đến cuối năm 2000 phần lớn diện tích canh tác của xã Pù Nhi và một phần của xã Tam Chung, Trung Lý, Mường Lý được sử dụng để trồng cây thuốc phiện, do vậy việc sử dụng ma túy trở thành tập tục thói quen của rất nhiều người. Chính vì vậy tình trạng nghiện ma túy trên địa bàn huyện Mường Lát cũng có nhiều diễn biến rất phức tạp. Cứ thử làm một phép tính như thế này thì biết việc xóa bỏ được cây thuốc phiện trên nương rẫy của đồng bào là một điều cực nhọc biết bao. Nếu trồng một ha thuốc phiện, một mùa có thể thu được tám ki-lô-gam mủ, bán tại chỗ là bốn mươi triệu đồng, lại không cần phân bón, không mất công chăm sóc, thu hoạch nhẹ nhàng, bán tiền tươi. Còn nếu cũng một ha đó mà trồng lúa hay ngô thì chỉ được khoảng mười triệu đồng, lại phải mất công chăm bón rồi vận chuyển, bảo quản rất nhiêu khê. Nguồn lợi lớn như vậy, nhưng được sự quan tâm thiết thực của Ðảng, chính quyền qua các dự án của Chính phủ, của các tổ chức cá nhân, đến nay Mường Lát đã xóa bỏ được hoàn toàn diện tích trồng cây thuốc phiện...
Mường Lát trước đây còn được coi như cái trạm trung chuyển của dân buôn thuốc phiện. Năm nào các lực lượng chuyên ngành đóng trên địa bàn cũng bắt và khởi tố hàng chục vụ với mấy chục bị can. Thủ đoạn của dân buôn thuốc phiện ngày một tinh vi, khi thì bỏ vào hộp mì tôm, hộp sữa, khi thì cho vào can nhựa thả trôi theo dòng sông Mã. Công tác mật phục bắt quả tang cũng vô cùng khó khăn, khi vận chuyển dân buôn thuốc phiện thường cầm thuốc ở tay, thấy động là ném thật xa để phi tang, chính vì vậy nhiều khi biết rõ mười mươi nhưng đành ngậm ngùi, hẹn một dịp khác sẽ có đủ tang chứng vật chứng cho chúng tâm phục khẩu phục.
Bản Ðoàn Kết của người Khơ Mú là một trong rất ít bản của huyện Mường Lát hoàn toàn không có người nghiện thuốc phiện. Ngoài nguyên nhân làm tốt công tác tuyên truyền, phải kể đến những tấm gương mẫu mực của người già. Người già đã làm bạn với khói thuốc phiện gần trọn cả cuộc đời, nhưng khi nghe tuyên truyền chủ trương chính sách của Nhà nước, người già đồng loạt bỏ thuốc phiện. Chúng tôi đã gặp hai cụ có tuổi cao nhất của bản và có thâm niên đánh bạn với khói thuốc phiện lâu nhất, đó là già Cút Văn Khánh và Lò Văn Ngân. Hai cụ tuổi chín mươi cả, vậy mà đã bỏ thuốc được gần mười năm nay. Các cụ nói: "Mình làm bạn với thuốc mình đã khổ lắm rồi, trước đây tự trồng lấy mà hút thì không sao, khi không còn trồng cây thuốc phiện nữa lên cơn nghiện phải chui lủi mua lén lút hút như con thú rừng ẩn mặt khổ lắm. Mình khổ, mình đã biết cái khổ rồi, không muốn mấy đứa trẻ khổ như mình nên mình phải làm gương thôi". Và chính cái việc làm gương của người già ở bản Ðoàn Kết mà cộng đồng người Khơ Mú ở đây đã không cho cái khói thuốc phiện nó vào trong nhà mình, bản làng như được hồi sinh.
Chuyện làm gương ở bản Ðoàn Kết phải kể đến Bí thư Chi bộ Cút Văn Thu. Bí thư Thu có đến năm người con. Tôi hỏi sao làm Bí thư mà đẻ nhiều con thế? Bí thư Thu nói:
- Khi đó có biết là phải đẻ ít mới đỡ cực đỡ khổ đâu. Lỡ đẻ rồi thì nuôi thôi, nuôi cho tốt, cho chúng nó học hành khỏi khổ như mình. Tôi có thằng con thứ hai đang học Ðại học Biên Phòng trên Hà Nội đấy.
- Rồi như chuyện đưa trâu bò ra rừng, Bí thư Thu kể tiếp, người Khơ Mú mấy mươi đời nay cứ phải cho trâu bò ở dưới gầm nhà sàn cho nó quen hơi người, cho con hổ con báo không vào bắt tha đi. Nhưng khi nghe cán bộ xuống tuyên truyền, nói trâu bò ở cùng người như vậy là không được, sẽ nhiều bệnh tật, tại bệnh tật mà chết chứ không phải do con ma núi bắt đâu. Tuyên truyền một lần dân bản chưa nghe, tuyên truyền mười lần dân bản chưa nghe, Bí thư phải cùng với trưởng bản đưa trâu bò ra rừng trước, bây giờ thì tốt lắm rồi, sạch lắm rồi!
-Tại sao Bí thư Thu lại động viên anh Thi và trai bản đi bộ đội?
- Cái cầu treo bắc qua sông Mã ngoài kia là bộ đội làm cho dân bản đó, rồi con đường vào bản này nữa cũng bộ đội làm. Trước đây muốn đi ra xã Tén Tằn phải mất cả ngày đường rồi lội sông lội suối, bây giờ đã có cầu, có đường, làm nương làm rẫy, có cái xe máy, muốn đi ra Tén Tằn chỉ có nửa tiếng thôi. Tất cả là nhờ có bộ đội Quân khu bốn cả đấy...
Là một huyện nằm cheo leo trên núi, lại có đợt rét đậm, rét hại rồi tiếp đến cơn bão số năm hoành hành, vậy mà vụ chiêm xuân năm 2008 toàn huyện đã gieo cấy được 167ha, năng suất đạt 30 tạ/ha. Lúa rẫy là 2.700ha, ngô là 3.903ha, sắn 941ha... Chúng tôi đã đi thực tế đến bản Piềng Tặt- Nà Hào - Bản Bóng của xã Mường Chanh; đập, kênh bản Cúm xã Quang Chiểu; đập, kênh Xa Lung bản Tân Hương xã Tam Chung rồi các công trình ở Nà Khà xã Tén Tằn, hệ thống nước sinh hoạt ở xã Mường Lý, điện sinh hoạt ở bản Kéo Cưa, rồi các dự án hỗ trợ làm nhà - đường - trường - trạm... đến đâu cũng thấy sự khởi sắc của một vùng biên xa xôi, thấy được những đồng vốn của Nhà nước đã thấm dần vào trong các lĩnh vực đời sống đồng bào. Như lời của đồng chí Hà Văn Duyệt, Bí thư Huyện ủy tâm sự: "Ðối với đồng bào, lời nói phải đi đôi với việc làm, chỉ có như thế thì đồng bào mới bám bản, bám rẫy. Ðồng bào phải thấy được định canh định cư thì có cái đường tốt để đi, có cái điện để mà thắp sáng, con em có cái trường để mà học, còn cứ du canh du cư trên những triền núi cao thì cuộc sống của mình, của con cháu mình sẽ cực khổ...". Quả vậy. Càng tiếp xúc với bà con nơi đây chúng tôi càng thấy rõ rằng, trực quan sinh động sẽ tác động rất lớn đến suy nghĩ của đồng bào, dần dần đồng bào sẽ thay đổi dần cái nếp sống lạc hậu cũ. Có đường, có trường, có trạm... cuộc sống sung túc hơn nhưng không vì thế mà đồng bào phải bỏ đi các nét văn hóa đẹp của dân tộc mình. Có điện, có đầu máy, có ti-vi nhưng đêm đêm các chàng trai Mông vẫn có thể vác khèn lên đỉnh núi hát lên những giai điệu của tình yêu, rồi trai gái vẫn trao nhau ân tình qua trái còn ngày hội, cô gái Thái vẫn miệt mài bên khung cửi đợi ngày ngập ngừng những bước đi đầu tiên lên cầu thang nhà chồng. Có các công trình vệ sinh hiện đại nhưng sơn nữ vẫn có thể phô phang sắc xuân bên suối vắng mỗi buổi chiều về và mái tóc sơn nữ vẫn có thể thả lượn lờ theo sông làm ngẩn ngơ bao khách đa tình. Mọi thứ có thể thay đổi, nhưng bản sắc của từng dân tộc thì phải giữ. Phải giữ được bản sắc dân tộc mình trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới.
Dự định ngày mai chúng tôi về xuôi, chiều lên chào đồng chí Chủ tịch Lương Văn Bường, đang ngồi nói chuyện thì có điện thoại reo, nghe xong, đồng chí nói: "Ðồng bào ở xã Tén Tằn bắt được mấy con lươn, muốn được lên làm món ăn cùng Chủ tịch huyện". Và rồi chiều đó họ lên thật. Lươn nấu khế, là lạ, chua chua, ngon ngon. Thơm thảo hơn là người dân có món ngon đã nhớ đến cán bộ, và còn hơn thế nữa là cán bộ đã tạo được lòng tin trong dân, dân đã dám đến gần và được đến gần. Ðiều giản dị đó Bác Hồ đã dạy cán bộ nhiều rồi, nhưng có phải người công bộc, người đầy tớ nào của dân cũng làm được điều đó. Một người dân đưa lươn lên huyện và ngồi uống rượu với Chủ tịch huyện, rồi râm ran chuyện làng chuyện bản, chuyện nắng mưa thời tiết, chuyện Ðông chuyện Tây, chuyện ông bà mình ngày đi lập bản, chuyện Chủ tịch huyện ngày còn là cán bộ vùng cao ngỡ ngàng thổ nhưỡng, nếp sinh hoạt, phong tục tập quán đồng bào... Chuyện vui, rượu vui và đêm lăm vông nhóm tự bao giờ, rồi xiêm, rồi áo, rồi khăn... Tôi say trong men rượu và say trong sắc mầu thổ cẩm. Ðêm nay tụ hội về đây sắc mầu của đồng bào Mông, Thái, Khơ Mú, Mường, Dao và mầu áo của Bộ đội Biên phòng, bộ đội huyện đội, giáo viên cắm bản... Tôi ngây ngất và thấy như hồn mình đang muốn về Sầm Nưa...