Những buổi sáng hối hả rời khỏi nhà, căng thẳng chen chúc giữa dòng xe cộ ngược xuôi, người đi như nước cuốn, khói bụi trùm kín người. Rồi những chiều muộn mệt mỏi trở về nhà, dù sao những lúc một mình đứng giữa bốn bề khô cứng trơ trụi, được nghe gió thổi, nhất là nghe tiếng chim hót bình yên cũng thấy đầu óc nhẹ nhõm, thảnh thơi đôi chút...
Ðó không phải là tiếng chim trên cành cây ríu rít buổi sớm mai khi người chưa thức giấc. Cũng không phải tiếng chim chào mào, chích chòe hay tiếng chim gáy gù nhau trên ngọn xà cừ hay giữa lùm si rậm rạp chi chít quả chín. Mà là những tiếng chim bị nhốt kín trong những chiếc lồng giữa bốn bề bê-tông dày đặc, bức bối. Nghe tù túng, mệt mỏi và buồn bã khắc khoải; khác hẳn tiếng chim trời tươi rói, tự do và phóng khoáng đã lắng đọng trong những tháng năm tuổi thơ tôi. Hồi ấy, đâu đâu cũng ngập đầy tiếng chim. Nơi nào có cây là nơi đó có tiếng chim. Có những con phố trồng toàn cây sao đen, cò bay về trắng xóa một góc trời, làm tổ, sinh nở tháng ngày. Những mặt hồ hoang sơ cỏ lác, sen, súng chen chúc phủ đầy mặt nước, từng đàn vịt trời, sâm cầm nhởn nhơ vỗ cánh lấp lánh nắng chiều. "Cái ngày xưa" ấy có xa xôi nỗi gì, bất quá chỉ ngót hai chục năm, một đoản khúc trường đời, mà bao ao hồ đã biến mất, bao nhà cửa đã mọc lên không còn chỗ cho chim làm tổ. Rồi bao ô-tô, xe máy chật ních đường, rầm rập ngày đêm xả khói bụi, khí thải càng góp phần xua đuổi mọi loài chim ra xa con người. Cuộc sống đô thị ồn ào, sôi sục có khác gì một cỗ máy khổng lồ, như chiếc máy xay ly tâm hất văng đi những âm thanh êm ả, bình yên tiếng chim hót mỗi sớm mai trong lành, mỗi hoàng hôn im vắng. Ðến mức bây giờ, người ta phải mang thiên nhiên, mang cây xanh và tiếng chim vào trong bốn bức tường. Tiếng chim vành khuyên bị nhốt chặt, thỉnh thoảng mới lọt ra ngoài, rất khó đoán từ ngôi nhà nào.
Sáng tinh mơ, đi tập thể dục về, tôi đứng dưới ngõ cất tiếng huýt sáo bắt chước tiếng chim. Lập tức tiếng chim tranh nhau cất tiếng hót vang. Thoạt đầu là tiếng khướu, yểng lảnh lót, lấn át tất cả. Rồi mới đến chim cu gáy bổ từng hồi đều đều, khoan nhặt lẫn trong tiếng chào mào, chích chòe lửa. Lặng im lắng nghe thì nhận ra tiếng chim khuyên trong veo từng giọt luyến láy như những hạt mưa, rỏ xuống chiếc cốc thủy tinh mỏng tang. Những chiều muộn trên sân thượng, trong dàn âm thanh tiếng chim nháo nhác nhớ đàn, nhớ tổ, nhớ trời mây, cây cỏ, tôi chẳng làm sao nhận ra tiếng những loài chim thân phận nhỏ nhoi. Cho đến một chiều mưa rào đầu mùa, tôi bước vào căn nhà hai tầng thấp nhỏ. Ở đó treo dăm lồng chim khuyên. Một thoáng ngỡ ngàng, chủ nhà không phải một ông già như tôi tưởng. Người đàn ông tóc muối tiêu xởi lởi mời tôi uống trà. Nước vẫn nóng hổi, trà còn đậm đặc.
Như thể đã quen biết nhau từ lâu, ông cười xuề xòa nói, nhờ có tiếng chim người ta tìm đến nhau. Tôi nuôi mấy con khuyên này cho vui nhà, vui cửa, chứ chẳng phải đi thi thố gì đâu. Có tiếng chim, tự nhiên người trong nhà nói với nhau cũng nhỏ nhẹ, đỡ gắt gỏng hơn. Tôi góp chuyện, tiếng chim khuyên nghe bình yên hợp với tâm tính từng người. Mấy nhà gần đây lại thích nuôi yểng, sáo dạy nói tiếng người, nhiều lúc nghe chói tai thật. Ông thủng thẳng, bây giờ ngoài trời ngày càng thiếu vắng tiếng chim, nên mới phải nhốt tiếng hót của chúng vào trong lồng. Buồn vì hiếm tiếng chim, còn tiếng người, tiếng ồn ào, huyên náo có thiếu gì. Hay ho gì mà còn dạy chim nói tiếng người. Thú thực với ông, một ngày với tôi, nếu không được nghe tiếng chim vành khuyên hay tiếng họa mi thì cảm thấy cuộc đời nhạt nhẽo lắm. Chẳng cứ riêng ông, tôi nghe tiếng chim cũng thấy như lọc trong mọi tiếng ồn, âm thanh khó chịu bốn bề chung quanh. Nghe tiếng chim trong lành, tiếng người nói với nhau cũng phải nhẹ nhàng hơn. Trong cuộc đời có quá nhiều sự ồn ào, chỉ có tiếng chim khiến lòng người yên tĩnh, lắng lại.