Làng cổ Ðại Bái

Cư dân thời dựng nước sinh tụ trong vùng còn để lại nhiều di vật đồng thau ở di chỉ Lãng Ngâm. Dân địa phương nay vẫn truyền miệng sự tích người thợ đúc đồng làng Bưởi góp công đúc ngựa sắt và roi sắt cho Thánh Gióng đánh giặc Ân. Giếng nước làng và khóm tre bảy bụi tán xòe như bình hương hiện còn, xưa nay được coi là vết chân ngựa sắt và khóm tre đằng ngà thuở Ông Gióng xông pha trận mạc.

Ðô thị cổ Luy Lâu thời đầu Công nguyên đã có thể ra đời, là do sự trù phú của vùng Bưởi Nồi chiêm trũng đấy nhưng sớm biết "chuyển dịch cơ cấu kinh tế" bằng đa nghệ công thương...

Ðại Bái từ lâu nổi tiếng, nay cũng hưng thịnh, bởi nghề gò đúc đồng truyền thống. Cả làng là một công xưởng lớn. Nhà nhà làm hàng đồng, từ đúc luyện tới cán dát, gò hàn, tạo hình, chạm khắc, đánh bóng.

Hàng đồng lắm vẻ sáng choang cả chợ quê Ðại Bái giáp với đình làng, và theo thương lái đi tứ xứ những nồi, ấm, mâm, sanh, chậu... Những cồng chiêng, khánh, chuông nhạc khí, thanh la, não bạt... Thương phẩm đồng đem lại thịnh vượng cùng niềm kiêu hãnh nhất nghệ tinh:

Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về Ðại Bái đánh nồi với anh

Còn thương hiệu Ðại Bái thì gây sức hút giao lưu tấp nập:

Thuyền ngược hay là thuyền xuôi
Có về Ðại Bái cho tôi về cùng

Nay, nghề tinh được coi là di sản văn hóa phi vật thể, nên các tiêu chuẩn kỹ thuật - công nghệ đúc đồng Ðại Bái vốn được giữ kín trong vòng lặng lẽ truyền nghề trong gia tộc, được nghiên cứu, cho hay thuật luyện, ghép đa kim Ðại Bái quả là đặc sắc, với các chất liệu và tỷ lệ riêng giữa đồng nguyên chất với kẽm, chì, vàng, bạc, bên cạnh công phu rèn nghề nhẫn nại để có thợ lành nghề và các nghệ nhân tài hoa.

Làng thịnh vượng, nhưng không ham tiêu tiền vào vật dụng thời thượng, mà vào việc học và kiến trúc công cộng làm đẹp cảnh quan. Thế nên Ðại Bái cũng là đất học và khoa bảng. Con cháu bao đời tôn vinh các tiền bối tiến sĩ như Phạm Hoảng (khoa thi 1535, cùng khoa với Trạng Trình), làm quan thanh tra cạnh bộ Hộ. Như Nguyễn Hoang Diễn, cũng thời giữa Lê, làm quan hiệu đính sách trong triều. Sau là sáu vị tiến sĩ khác từ thời cuối Lê tới thời Nguyễn, đều tham gia triều chính.

Ðại Bái có cả quần thể kiến trúc cổ, rất tiếc hầu hết bị quân Pháp phá hủy thời kháng chiến 1945 - 1954. Ðình Văn Lãng bề thế dựng vào thời Lê, thờ Lạc Long Quân cùng Á thần Nguyễn Công Hiệp là quận công, người làng, nhiều công trạng với dân. Sau 1954, dân làng làm lại đình, quy mô nhỏ hơn, nhưng thờ phụng vẫn nghiêm trang.

Ðình Tổ nghề đồng, còn gọi đình Diên Lộc, cũng được dựng lại, thờ Tổ nghề Nguyễn Công Truyền và các vị Tổ kế nghiệp, kiến trúc nhỏ nhưng là một "bảo tàng" về đủ loại đồ thờ, bát bửu đồng giá trị.

Chùa Diên Phúc nguy nga ở thế kỷ 17 sau trùng tu, đặc sắc với kiến trúc chồng diêm tám mái, nay thay vào là ngôi chùa nhỏ, nhưng nhiều cổ vật, gồm các đồ thờ, độc đáo và giá trị là tượng quân công Nguyễn Công Hiệp tạc bằng đá xanh vào thế kỷ 17 dân làng còn giữ được. Ngoài cánh đồng Lit là Lăng Tổ nghề Nguyễn Công Truyền có tường hoa bao quanh.

Dân làng Ðại Bái nay vẫn giữ nếp cần cù, ham làm nghề truyền thống cha ông và hiếu học. Dân làng đồng thuận cùng ngành văn hóa góp công góp của giữ gìn các di tích và nghề cổ truyền, tiến tới xây dựng khu trưng bày các hiện vật lịch sử và hệ thống hiện vật, sản phẩm tôn vinh nghề gò đúc đồng, để dân làng thưởng ngoạn, con cháu học hỏi ông cha, khách bốn phương thêm hiểu một vùng quê Kinh Bắc.

Có thể bạn quan tâm