“Khoảng trống” khó lấp đầy
Trong biểu diễn sân khấu kịch hát dân tộc, âm nhạc và diễn xuất không thể tách rời, nhất là với các loại hình tuồng, chèo, cải lương…, âm nhạc càng có ý nghĩa quan trọng. Tính trung bình, mỗi dàn nhạc của các đơn vị sân khấu truyền thống phải có đến mười người chơi các loại nhạc cụ dân tộc khác nhau. Tuy nhiên, hiện nhiều đơn vị sân khấu truyền thống chỉ duy trì được vài nhạc công, cho dù họ đều có thể chơi nhiều nhạc cụ, nhưng vẫn không thể khỏa lấp khoảng trống âm thanh khi cần thể hiện những đoạn hòa tấu phức tạp. Điều này vô hình trung làm giảm hiệu quả phần nhạc trong các loại hình nghệ thuật truyền thống. Theo đạo diễn, Nghệ sĩ Ưu tú (NSƯT) Trần Minh Ngọc, trước đây, để cho ra đời một vở diễn sân khấu, người ta luôn yêu cầu phải sáng tác nhạc cho từng tác phẩm. Mỗi đạo diễn trong công tác dàn dựng đều có những nhạc sĩ “ruột”, tạo thành ê-kíp. Hiện nay, do các đơn vị biểu diễn hoạt động theo cơ chế thị trường phải tính toán chi li lỗ lãi, nên một số đơn vị, đặc biệt là khu vực sân khấu tư nhân, xã hội hóa dần bỏ luôn việc mời các nhạc sĩ sáng tác riêng cho từng vở diễn. Thay vào đó, họ mời những người có khả năng thẩm âm hoặc am hiểu âm nhạc chọn giúp nhạc cho tác phẩm theo yêu cầu của đạo diễn hoặc lãnh đạo nhà hát. Kho tàng nhạc có sẵn giúp việc chọn nhạc bớt khó khăn, đỡ tốn kém, mệt sức… nhưng hệ quả tất yếu là làm chất lượng vở diễn giảm sút, hiệu quả nghệ thuật không cao.
NSƯT Hoàng Văn Đạt - Phó Giám đốc Nhà hát Cải lương Việt Nam chia sẻ: Dàn nhạc cần từ 10 đến 15 người chơi, nhưng hiện quân số không thể bảo đảm nên phải khoán cho nhạc sĩ thu đĩa sẵn. Khi nhạc đã ấn định thì rất khó thay đổi lúc xử lý sân khấu. Nhiều khi lời hát không phù hợp tiết tấu nhạc cũng buộc phải ngậm ngùi chấp nhận, vì làm lại mất thời gian, tốn kém. Cũng bởi thế chất lượng âm thanh sân khấu ngày càng nghiệp dư hóa. Năm 2012, Nhà hát Cải lương Việt Nam có 14 nhạc công nhưng giờ chỉ còn sáu, người về hưu, người bỏ ra ngoài làm vì thu nhập bấp bênh. NSƯT Đặng Bá Tài, Trưởng phòng Nghệ thuật Nhà hát Tuồng Việt Nam, cho biết, tình trạng thiếu nhạc công ở sân khấu tuồng cũng phổ biến. Hiện nhà hát có hơn chục nhạc công nhưng phải chia cho hai đoàn biểu diễn nên cũng không đủ đáp ứng yêu cầu nghệ thuật. NSƯT Thanh Ngoan, Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam cho biết, so với các đơn vị bạn, nhà hát chèo có khá hơn, mỗi đoàn bảo đảm trung bình mười nhạc công, nhưng lại nằm trong tình trạng chung là thiếu những nhạc công tài năng thật sự.
Nguyên nhân của thực trạng trên có rất nhiều. Bên cạnh sự thiếu quan tâm của một số lãnh đạo các đoàn và nhà hát đối với dàn nhạc, thực tế là phần lớn các đơn vị công lập phụ thuộc vào kinh phí bao cấp rất hạn chế, lại luôn trong tình trạng thiếu vắng khán giả, cho nên buộc phải tinh giản nhân sự và sử dụng dàn nhạc cho vở diễn theo hướng gọn nhẹ. Có đơn vị tuyển được người tài, nhưng do thu nhập thấp và không có biên chế, nên những người này lần lượt khăn gói ra đi. Mặc dù rất cần nhạc công, nhưng nhiều đơn vị sân khấu vẫn khó tìm được đội ngũ bổ sung cho dàn nhạc, bởi “đầu vào” cũng gặp nhiều thách thức. Đơn cử, Trường đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội - cái nôi đào tạo nhạc công kịch hát dân tộc đã nhiều năm nay không thể tuyển đủ chỉ tiêu. Năm 2016, nhà trường đặt mục tiêu tuyển 12 thí sinh hệ cao đẳng nhưng rốt cuộc chỉ tuyển được bảy. Tình trạng khó khăn nói chung của sân khấu truyền thống khiến nhiều thí sinh không tin tưởng vào tương lai với ngành học này. Và ngay cả khi tuyển được người, không ít đơn vị phải đối mặt nỗi lo làm sao giữ chân nghệ sĩ, khi mà hầu như ai cũng có gánh nặng mưu sinh. Đây là thách thức không nhỏ của sân khấu dân tộc, nhất là khi các đơn vị nghệ thuật truyền thống đang phải xoay xở trong bối cảnh tự chủ kinh tế.
Nỗ lực tự “giải cứu”
Có thể thấy, thiếu nhạc công sân khấu là một trong hàng loạt “khủng hoảng thiếu” mà sân khấu truyền thống đang phải đối mặt, như: khan hiếm diễn viên trẻ, đạo diễn tài năng, kịch bản hay…, cần được tháo gỡ đồng bộ. Với bài toán thiếu nhạc công, lời giải quan trọng nhất là cần tạo nguồn để có lực lượng bổ sung kịp thời cho các dàn nhạc của sân khấu truyền thống.
NSƯT Hoàng Văn Đạt cho biết: Việc đào tạo nhạc công sân khấu truyền thống không đơn giản. Để trở thành diễn viên, nếu thí sinh đã có giọng hát, ngoại hình thì đào tạo vài năm có thể diễn được. Nhưng đào tạo nhạc công thì đòi hỏi thời gian lâu hơn. Việc đào tạo nhạc công sân khấu dân tộc cũng giống như đào tạo diễn viên, phải theo phương thức truyền nghề từ những nghệ sĩ đã thành danh mới hiệu quả; đây cũng là phương thức truyền thống mà cha ông ta truyền dạy cho các lớp kế cận. Một số trường đào tạo âm nhạc ở nước ta đã có khoa nhạc cụ truyền thống. Song ngay cả các giáo trình, bài soạn giảng dạy cũng chưa thật chuẩn làn, điệu theo từng loại hình sân khấu dân tộc, dẫn đến nhiều học viên tốt nghiệp từ các trường này, chưa chắc thích ứng dàn nhạc của đơn vị nghệ thuật. Vì thế, các cơ sở đào tạo cần đặc biệt chú trọng vai trò đứng lớp và kinh nghiệm thực tế của chính các nghệ sĩ đã thành danh, nhiều kinh nghiệm.
Theo Giáo sư Hoàng Chương, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, việc hiện đại hóa dàn nhạc của một số đơn vị sân khấu dân tộc tuy cần thiết để phù hợp những vở diễn có quy mô lớn, thể hiện các đề tài cuộc sống đương đại, nhưng không nên “gieo vừng ra ngô”, vận dụng một cách tùy tiện âm nhạc phương Tây vào sân khấu truyền thống Việt Nam. Bên cạnh đó, để có được một đội ngũ nhạc công sân khấu dân tộc, các nhà hát tự thân vận động là rất khó, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, với chính sách ưu tiên cho nghệ sĩ, nghệ nhân có nghề, tạo điều kiện để họ truyền nghề cho thế hệ trẻ, khuyến khích những người học và những người đang hành nghề say mê theo đuổi nghiệp. Những nhà quản lý và hoạt động sân khấu, nhất là sân khấu dân tộc cần có định hướng, tập trung việc tạo dựng đội ngũ khán giả cho sân khấu dân tộc, giúp thế hệ trẻ hiểu và yêu quý văn hóa dân tộc, không để các loại hình văn hóa giải trí khác lấn át.
Hiện nay, được sự đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các nhà hát sân khấu dân tộc hàng đầu đã thực hiện thí điểm tự chủ tuyển sinh đào tạo nhạc công từ năm 2014, như ba nhà hát chèo, tuồng và cải lương Việt Nam, song đến nay, chỉ có Nhà hát Chèo Việt Nam tuyển tương đối đủ so với dự kiến. Hai nhà hát còn lại tuyển được ít thí sinh, thậm chí có thí sinh bỏ ngang không học sau khi đã trúng tuyển. Dẫu vậy, đây vẫn là tín hiệu vui, bởi lãnh đạo các nhà hát đã thấy được phần nào hy vọng khi còn tuyển được thí sinh. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã vào cuộc quyết liệt, từng bước tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị nghệ thuật. Cuối năm 2015, Bộ triển khai đề án “Đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật tuồng, chèo, cải lương và dân ca kịch chuyên nghiệp trong cả nước giai đoạn 2016-2020”. Cùng với tuyển diễn viên, mỗi đơn vị tuồng, chèo được tuyển năm nhạc công; mỗi đơn vị cải lương, dân ca kịch được tuyển ba nhạc công, với thời gian đào tạo từ ba năm đến bốn năm.
Các đơn vị nghệ thuật đều đang mong đợi sự thành công của đề án, để thời gian tới, “điệu đàn dân tộc” của cha ông có những người đủ tài năng, tâm huyết phát huy, gìn giữ.