Khai mở tiềm năng nuôi biển công nghệ cao

Mô hình nuôi biển công nghệ cao tại tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh KIM SƠ)
Mô hình nuôi biển công nghệ cao tại tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh KIM SƠ)

Nuôi biển công nghệ cao không chỉ giúp Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng biển, mở ra hướng phát triển mới, mà còn góp phần quan trọng vào chiến lược chống khai thác IUU, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống nông ngư dân. Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trò chuyện với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam.

Phóng viên: Xin ông đánh giá về những thách thức trong phát triển các dự án nuôi biển tại Việt Nam hiện nay?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: Hoạt động nuôi biển đang được triển khai ở hơn 20 tỉnh, thành phố ven biển, trong đó tập trung tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang. Nuôi biển được chia thành các khu vực: nuôi ven bờ (trong vòng 3 hải lý), nuôi gần bờ (từ 3 đến 6 hải lý) và nuôi xa bờ, nuôi biển khơi (ngoài 6 hải lý). Ở nước ta, nuôi biển ven bờ và gần bờ vẫn là chủ yếu. Nuôi cá biển ven bờ có khoảng 244.000 lồng, bè; nuôi gần bờ có 4.300 lồng, bè và nuôi biển xa bờ chỉ có hơn 130 lồng, bè.

Bên cạnh những tiềm năng, lợi thế, ngành nuôi biển nước ta vẫn đối diện với nhiều thách thức. Phần lớn hoạt động nuôi biển diễn ra tự phát, quy mô nhỏ lẻ, sử dụng công nghệ thủ công truyền thống, vật liệu bè nuôi bằng tre, gỗ độ bền thấp, không có khả năng chống chọi thiên tai. Các vùng nuôi khu vực biển kín ven bờ thường có mật độ lồng quá cao, gấp 3 đến 5 lần so với quy hoạch, đe dọa phá vỡ cân bằng sinh thái. Mật độ nuôi trong lồng quá dày sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường biển và lây lan dịch bệnh nhanh. Khi có dịch, người nuôi lại thường không báo cáo với các cơ quan chức năng mà tự ý mua thuốc kháng sinh để chữa, dẫn đến hiệu quả thấp, đồng thời gây ra hiện tượng kháng kháng sinh.

Ngoài ra, quy hoạch các vùng nuôi biển chưa được thực hiện dựa trên cơ sở khoa học vững chắc. Việc giao khu vực biển lâu dài cho người dân chưa thực hiện được do thủ tục hành chính còn phức tạp. Vì vậy, nuôi biển ở nước ta chưa phát triển.

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), với trình độ công nghệ hiện nay, các nước có thể phát triển nuôi cá biển trên 0,1% diện tích vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), với năng suất từ 9.900 đến 11.600 tấn/km2/năm.

Phóng viên: Những mô hình nuôi biển hiện đại của Việt Nam đang hoạt động như thế nào, thưa ông?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), với trình độ công nghệ hiện nay, các nước có thể phát triển nuôi cá biển trên 0,1% diện tích vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), với năng suất từ 9.900 đến 11.600 tấn/km2/năm. Như vậy, trên 0,1% diện tích vùng EEZ của nước ta, Việt Nam có thể nuôi được 10 triệu tấn cá biển mỗi năm, chưa kể các loài nhuyễn thể, rong biển, động vật da gai…

“Cụm công nghiệp nuôi biển” là sáng kiến do Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đề xuất nhằm khắc phục căn bản tình trạng tự phát, manh mún, lạc hậu của nghề nuôi biển truyền thống. Công ty trách nhiệm hữu hạn Thủy sản Australis Việt Nam (thành viên của Hiệp hội Nuôi biển) là doanh nghiệp đã vận hành hiệu quả cụm công nghiệp nuôi biển đầu tiên tại Việt Nam trên Vịnh Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa), áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và công nghệ tiên tiến vào quy trình sản xuất khép kín, từ sản xuất con giống đến chế biến và phân phối sản phẩm ra thị trường toàn cầu. Hiện đây là doanh nghiệp sản xuất cá chẽm lớn nhất thế giới với sản lượng hơn 12.000 tấn/năm.

Tiếp nối mô hình thành công nêu trên, thời gian gần đây, một số doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội đã xây dựng các đề án cụm công nghiệp nuôi biển thí điểm và đang hợp tác với cơ quan quản lý nhà nước tại một số tỉnh như Quảng Ninh, Khánh Hòa, An Giang để triển khai.

Phóng viên: Vậy theo ông, cần làm gì để khai thác hiệu quả tiềm năng nuôi biển công nghệ cao ở Việt Nam?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: Để đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực ASEAN về phát triển bền vững nuôi biển công nghệ cao, việc đầu tiên là khắc phục tình trạng nuôi biển manh mún, tự phát. Các tỉnh, thành phố ven biển cần có quy hoạch cho nuôi biển, như: Phân vùng sản xuất tập trung cho từng nhóm đối tượng nuôi trồng cụ thể (cá biển, nhuyễn thể, rong biển), tạo vùng sản xuất lớn, đồng nhất về chất lượng, được chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế như GlobalGAP, ASC.

Ưu tiên quy hoạch biển và vùng bờ cho việc thiết lập các cụm công nghiệp nuôi biển, coi đây là khu vực sản xuất thủy sản tập trung, có ranh giới địa lý xác định; cung cấp hạ tầng kỹ thuật và các dịch vụ cho sản xuất nuôi biển, được các doanh nghiệp lớn đầu tư chuyên nghiệp.

Để có thể tận dụng và phát huy thế mạnh đa ngành, khai thác và sử dụng tối đa tiềm năng không gian biển, nên ưu tiên quy hoạch theo hướng tích hợp nuôi biển với du lịch, điện gió và các ngành kinh tế biển khác.

Về thủ tục pháp lý liên quan việc giao biển cho người dân, có thể chỉnh sửa theo hướng khuyến khích người dân tham gia nuôi biển, bảo vệ môi trường. Với hoạt động nuôi biển ít tác động xấu đến môi trường như nuôi các loài nhuyễn thể, động vật đáy, trồng rong biển..., có thể xem xét bãi bỏ thủ tục báo cáo đánh giá tác động môi trường, chủ đầu tư chỉ cần có cam kết bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, có thể xem xét áp dụng cách tính phí hợp lý cho nuôi biển, theo các nguyên tắc: chỉ tính phí với phần diện tích thực tế để nuôi biển, quy định mức phí khác nhau cho các vùng nuôi có điều kiện khác nhau, đối tượng nuôi khác nhau. Ưu tiên giao biển cho các hợp tác xã và doanh nghiệp tổ chức lại sản xuất chuyển từ nuôi biển thủ công truyền thống sang nuôi biển thương mại bền vững.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm