Hơn 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý, hiếm được bảo tồn, lưu giữ

NDO - Việt Nam đã bảo tồn, lưu giữ được hơn 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý, hiếm; đánh giá ban đầu được gần 56.000 nguồn gene... phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, giá trị cao hơn.
0:00 / 0:00
0:00
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại hội thảo.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại hội thảo.

Nhằm đánh giá kết quả thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1671/QĐ-TTg, ngày 29/7/2024, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội thảo “Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene giai đoạn 2015-2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025-2030".

Đánh giá cao kết quả của chương trình, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho hay, đến nay, chúng ta đã bảo tồn, lưu giữ được trên 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý, hiếm; trong đó có 47.772 nguồn gene thực vật nông nghiệp, 5.768 nguồn gene cây lâm nghiệp, 7.039 nguồn gene dược liệu, 891 nguồn gene vật nuôi, 391 nguồn gene thủy sản, 19.050 nguồn gene vi sinh vật. Đây là nguồn vật liệu vô cùng quý, phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, giá trị cao hơn.

Chương trình đã đánh giá ban đầu được gần 56.000 nguồn gene; nhiều nguồn gene được khai thác và ứng dụng trong sản xuất, đời sống như sâm ngọc linh, tôm mũ ni, cá hô, lúa bản địa chất lượng cao, cây vù hương, lợn ỉ... góp phần nâng cao giá trị gia tăng của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là ngành nông nghiệp.

Điển hình, Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) đã điều tra thu thập được trên 10.000 nguồn gene thuộc các nhóm cây trồng.

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và các trường đại học có khoa lâm nghiệp thời gian qua đã thu thập bảo tồn gần 2.000 nguồn gene thuộc 70 loài cây lâm nghiệp, trong đó có các nguồn gene của nhiều loài quý hiếm với 100% nguồn gen bản địa về trồng ở một số nơi địa phương như Sơn La, Lào Cai, Ba Vì, Phú Thọ, Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Thuận…

Đặc biệt, trong những năm gần đây số lượng nguồn gene có giá trị làm thuốc đã được phát hiện và thu thập, bảo tồn khoảng hơn 7.000 nguồn gene.

Cho đến nay, chúng ta đã đánh giá ban đầu trên 55.800 nguồn gene, đánh giá chi tiết trên 14.100 nguồn gene. Bên cạnh đó, đã khai thác sử dụng hiệu quả, phát triển nhiều nguồn gene quý hiếm có giá trị kinh tế thuộc lĩnh vực lâm nghiệp, dược liệu, vật nuôi, thủy sản, vi sinh vật.

Hơn 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý, hiếm được bảo tồn, lưu giữ ảnh 1

Các đại biểu tham dự hội thảo.

Các nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gene đã được triển khai với trên 300 nguồn gene động, thực vật và hơn 700 nguồn gene vi sinh vật, trong đó làm chủ được 178 quy trình công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật về nhân giống, chọn tạo giống, canh tác, nuôi và chăm sóc các nguồn gene; triển khai 129 mô hình thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật và nhân rộng kết quả trong thực tiễn sản xuất, mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội tại nơi triển khai.

Các nhiệm vụ cũng đã xây dựng được hàng trăm tiêu chuẩn cơ sở, bao gồm tiêu chuẩn đàn hạt nhân, cây trội, đàn giống, đàn sản xuất, cây con thương phẩm.

Cùng với các bộ, ngành, các địa phương cũng tích cực tham gia Chương trình đã đạt được nhiều thành tựu. Điển hình như các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Nội, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, thành phố Cần Thơ... với nhiều kết quả nổi bật, đóng góp quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương.

Trong đó, nhiều sản phẩm đã trở thành thành sản phẩm OCOP 5 sao quốc gia như Ngọc Trai Hạ Long xuất khẩu sang Anh, Ấn Độ, Nhật bản với giá trị khoảng 6-8 tỷ đồng/năm; Trà hoa vàng Quy Hoa đang đàm phán để doanh nghiệp Hàn Quốc phân phối toàn cầu; Hồi Bình Liêu xuất khẩu đạt trên 50 tỷ đồng/năm.

Một số nguồn gene đã phát triển thành sản phẩm hàng hóa tập trung, được xây dựng và bảo hộ thương hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn như cam xã đoài, bưởi diễn, quýt Bắc Kạn, hồng không hạt, miến dong, vịt bầu cổ xanh, Gạo bao thai Chợ Đồn, Khẩu nua lếch Ngân Sơn, Chè shan tuyết Bằng Phúc huyện Chợ Đồn...

Các kết quả nói trên là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực của công tác bảo tồn, đánh giá và phát triển nguồn gen trong cả nước thời gian qua. Đáp ứng cơ bản các mục tiêu đề ra đến 2025 tại Quyết định số 1671/QĐ-TTg.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, thời gian tới, công tác bảo tồn và phát triển nguồn gene cần tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh hơn nữa. Điều này được khẳng định tại Nghị quyết số 36/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới, Nghị quyết số 189/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ xây dựng Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene giai đoạn 2026-2030, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I/2025.

"Để hoàn thành các mục tiêu đặt ra tại Quyết định số 1671/QĐ-TTg, ngày 29/7/2024, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, chúng ta cần tiếp tục tăng cường, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ công tác bảo tồn, lưu giữ, đánh giá nguồn gene; gia tăng nguồn lực khoa học và công nghệ nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gene góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước", Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nói.

Hội thảo là cơ hội để các nhà quản lý, nhà khoa học, các chuyên gia khắp cả nước trao đổi và chia sẻ những kinh nghiệm, thành tựu đạt được, những khó khăn, vướng mắc và đề xuất những giải pháp, định hướng mới nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình, bảo đảm sự phát triển bền vững cho thời gian tới.