Nhiều tiềm năng nhưng thiếu hạ tầng
Những năm qua, kinh tế tư nhân cả nước nói chung và tại Cần Thơ nói riêng đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng và mức độ đóng góp cho nền kinh tế.
Khu vực này hiện chiếm hơn 50% GDP cả nước, đóng góp trên 30% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho hơn 43,5 triệu lao động, chiếm khoảng 82% tổng số lao động có việc làm và đóng góp khoảng 56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2024.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Loan, Hiệu trưởng Trường Chính trị thành phố Cần Thơ, Nghị quyết số 68-NQ/TW không chỉ nhấn mạnh vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân mà còn đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Đây là những nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi khu vực doanh nghiệp tư nhân còn nhiều tiềm năng nhưng cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Thực tiễn cho thấy, dù đóng góp lớn cho nền kinh tế, khu vực doanh nghiệp tư nhân vẫn bộc lộ nhiều hạn chế mang tính cấu trúc. Quy mô doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm tới khoảng 98% tổng số doanh nghiệp, dẫn đến khả năng tích tụ vốn, mở rộng sản xuất, đầu tư nghiên cứu và phát triển còn hạn chế.
Năng suất lao động của khu vực này thấp hơn đáng kể so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; trình độ công nghệ nhìn chung ở mức trung bình hoặc thấp, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, chế biến, logistics và dịch vụ. Cùng với đó, hạn chế về năng lực quản trị doanh nghiệp tiếp tục là điểm nghẽn lớn.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân vận hành theo mô hình gia đình, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn, chậm đổi mới mô hình quản trị hiện đại, quản trị rủi ro và quản trị chuỗi cung ứng. Những yếu tố này làm giảm sức cạnh tranh và khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân là rất lớn, gắn với các lợi thế về nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo, logistics và du lịch sinh thái.
Tuy nhiên, vùng cũng đang chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu; kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông và logistics còn thiếu đồng bộ; trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn.
Tháo gỡ điểm nghẽn
Một trong những vấn đề nổi lên hiện nay là bài toán nguồn nhân lực, đặc biệt trong các ngành dịch vụ và du lịch. Thực tế, doanh nghiệp du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long không quá khó tuyển lao động, nhưng lại khó giữ chân người lao động gắn bó lâu dài.
Ông Võ Nguyễn Minh Thái, đại diện Cantho Eco Resort cho biết: Nguồn lao động phục vụ du lịch trong vùng nhìn chung không thiếu về số lượng, song thiếu tính ổn định và chuyên nghiệp. Nhiều lao động, nhất là lao động trẻ, xem công việc du lịch như lựa chọn tạm thời, ít người xem đây là nghề nghiệp lâu dài để đầu tư kỹ năng và gắn bó.
Nguyên nhân của thực trạng này không chỉ nằm ở mức thu nhập, mà còn xuất phát từ đặc điểm chung của doanh nghiệp trong vùng, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, nguồn lực tài chính hạn chế, khó xây dựng lộ trình nghề nghiệp và chính sách đãi ngộ dài hạn.
Trong khi đó, công tác đào tạo nghề tại chỗ còn nặng về lý thuyết, thiếu gắn kết với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng người lao động phải đào tạo lại từ đầu, làm gia tăng chi phí và ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ.
Theo Thạc sĩ Ngô Thị Hương Giang, Học viện Chính trị khu vực IV, vấn đề nhân lực của doanh nghiệp tư nhân ở Đồng bằng sông Cửu Long phản ánh thực trạng chung của thị trường lao động toàn vùng. Mặc dù có lực lượng lao động dồi dào, song chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ của vùng hiện chỉ đạt khoảng 26,5%, thấp hơn đáng kể so với các vùng kinh tế trọng điểm khác. Thu nhập bình quân của người lao động cũng ở mức thấp, góp phần thúc đẩy xu hướng di cư lao động ra ngoài vùng, nhất là lao động trẻ và lao động có trình độ.
Từ góc độ thể chế, Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp, Phó Chủ tịch Hiệp hội du lịch Đồng bằng sông Cửu Long nhấn mạnh vai trò của các hiệp hội ngành nghề về hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân và đào tạo nguồn nhân lực. Hiệp hội cần được xem là thiết chế trung gian, làm cầu nối giữa Nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và thị trường lao động.
Việc thể chế hóa vai trò của hiệp hội, tăng liên kết vùng sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh chính sách và thể chế, bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động đổi mới cách tuyển dụng và sử dụng lao động.
Doanh nghiệp ưu tiên tuyển lao động địa phương, chú trọng thái độ làm việc và khả năng thích nghi, kết hợp đào tạo tại chỗ, xây dựng môi trường làm việc ổn định, quan hệ lao động hài hòa. Khi người lao động cảm nhận được sự tôn trọng và cơ hội phát triển lâu dài, họ sẽ có xu hướng gắn bó hơn với doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế tư nhân ở Cần Thơ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, gắn với mô hình tăng trưởng mới trong bối cảnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 68-NQ/TW đã tạo ra khuôn khổ chính sách và động lực mới, song việc hiện thực hóa nghị quyết đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự chủ động của chính quyền địa phương, các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp.
Khi những điểm nghẽn về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực từng bước được tháo gỡ, khu vực kinh tế tư nhân sẽ phát huy vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và nâng cao sức cạnh tranh của thành phố Cần Thơ, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn mới.