5g giống lúa IR36 đã giúp Việt Nam phá dịch rầy nâu
Trong ký ức của Giáo sư Võ Tòng Xuân, những năm sau giải phóng, các loại giống lúa mới ông mang về IR26, IR30 bị rầy nâu tàn phá. Bấy giờ, ông liên hệ sang Philippines xin giống lúa mới để hy vọng người nông dân có được giống lúa tốt trị bệnh.
Giáo sư Gurdev Singh Khush đã gửi qua đường bưu điện về cho Giáo sư Võ Tòng Xuân giống mới IR36 phát triển rất tốt, không bị rầy nâu ăn. Giống IR36 đã được Giáo sư Gurdev Singh Khush nghiên cứu đưa thêm một loại gene kháng bệnh rầy nâu.
IR36 sau đó trở thành giống lúa được nhân rộng tại các tỉnh, thành phố ở miền nam Việt Nam. Nó cũng là giống lúa được nhiều quốc gia sử dụng, giúp các không bị rơi vào tình trạng thiếu lương thực.
Sau IR36, Giáo sư Gurdev Singh Khush phát triển một loại giống mới là IR64, IR64 có cùng khả năng thắng bệnh giống như IR36 nhưng ngon miệng hơn. Sau đó, giống lúa này trở thành một trong những giống lúa được trồng phổ biến nhất ở trên thế giới.
Giáo sư Gurdev Singh Khush đánh giá ba điều làm nên sức mạnh cho lúa gạo Việt Nam. |
Gắn bó với Viện nghiên cứu giống lúa quốc tế gọi là IRRI trong suốt 35 năm, Giáo sư Gurdev Singh Khush dành cả đời để "giải quyết các thách thức thực tế" của năng suất lúa thấp, nguy cơ xảy ra nạn đói ở châu Á. Bấy giờ, tham vọng của ông là "cứu thế giới" bằng việc nghiên cứu loại lúa có gene kháng bệnh, cho năng suất cao hơn gấp hai lần.
"Chỉ trong vòng 20 năm, tất cả giống lúa mới được trồng rộng rãi ở toàn bộ khu vực châu Á. Ở đây, dòng IR có rất nhiều dòng khác nhau như IR36, IR64, IR72 và rất nhiều IR khác nữa cũng được các quốc gia châu Á trồng rộng rãi để mà nâng sản lượng và giải quyết vấn đề thiếu lương thực", Giáo sư Gurdev Singh Khush chia sẻ.
Theo nhà khoa học được thế giới gọi là "phù thủy cây lúa" này, khu vực miền nam Việt Nam sẽ là vùng tiềm năng lớn nhất về lúa gạo. Khí hậu miền nam cho phép canh tác đến 2-3 vụ một năm, trong khi ở miền bắc chỉ tối đa được hai vụ lúa. Thực tế cũng chứng minh miền nam là khu vực canh tác và xuất khẩu lúa gạo lớn nhất của đất nước. Các điều kiện về thời tiết, thổ nhưỡng, khí hậu cũng tốt hơn cho việc trồng lúa gạo. Do đó, nhà khoa học này cho rằng Việt Nam cần tập trung vào vùng trọng điểm đó, với những chính sách phù hợp để khuyến khích canh tác lúa gạo ở Việt Nam.
Ba điều làm nên sức mạnh cho lúa gạo Việt Nam
Giáo sư Gurdev Singh Khush đánh giá, năng lực nghiên cứu lúa gạo ở Việt Nam rất là tốt vì ba đặc điểm sau đây: Thứ nhất, đội ngũ nhà khoa học được đào tạo bài bản về nhân giống, về trồng trọt.
Thứ hai, ở Việt Nam cũng có hệ thống có thí nghiệm trọng điểm về nghiên cứu lúa gạo. Thứ ba, Chính phủ Việt Nam là Chính phủ kiến tạo, khích lệ hoạt động này.
"Như vậy, Việt Nam có đủ cả ba điều kiện là nhà khoa học, cơ sở vật chất - phòng thí nghiệm và chính sách của nhà nước. Điều đó được phản ánh trong thực tế. Bởi, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước thì Việt Nam là nước nhập khẩu lương thực, thiếu đói. Đến bây giờ Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Ấn Độ và đó là sự ghi nhận công sức của các nhà khoa học của Việt Nam cũng như là chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực này cũng như sự phát triển của khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nhân giống lúa", Giáo sư Gurdev Singh Khush chia sẻ.
Chúng ta cần lựa chọn giống lúa thích ứng với biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là bài toán cho ngành nông nghiệp phải đối mặt với hai vấn đề lớn. Ngành nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng cũng là một hoạt động phát thải rất kinh khủng, do đó Giáo sư Gurdev Singh Khush cho rằng, con người một mặt phải bảo đảm đủ lương thực, mặt khác phải bảo đảm giảm phát thải trong sản xuất nông nghiệp và trong sản xuất lúa gạo.
Giáo sư Võ Tòng Xuân và Giáo sư Gurdev Singh Khush hội ngộ tại VinFuture 2023. |
"Chúng ta cần phải nghiên cứu ra những công nghệ mới, công nghệ trồng trọt mới, công nghệ phân bón mới, công nghệ sản xuất mới về lúa gạo sao cho vẫn tăng được năng suất nhưng mà không làm tăng phát thải và không làm nghiêm trọng hơn biến đổi khí hậu", Giáo sư Gurdev Singh Khush khuyến cáo.
Vấn đề lớn thứ hai, để làm chậm hoặc giảm tác động của biến đổi khí hậu thì có rất nhiều cách, chẳng hạn như một trong những phương thức chúng ta phát triển ra những giống lúa có sản lượng cao hơn, năng suất cao hơn, khi mà sản lượng cao hơn, năng suất cao hơn thì mình không nhất thiết phải trồng một diện tích lớn mới đủ sản lượng cần thiết mà chỉ cần trồng ở diện tích nhỏ thôi. Đây là những cách giúp chúng ta có thể thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm đủ lương thực cho các thế hệ tương lai trong 30, 40, 50 năm nữa.
Cùng có mặt với người cộng sự nhiều năm trong ngành nghiên cứu về giống lúa mới, Giáo sư Gurdev Singh Khush đánh giá, giải thưởng VinFuture có giá trị khích lệ với các nhà khoa học, đặc biệt là nếu các nhà khoa học lớn tuổi như Giáo sư Võ Tòng Xuân. Việc những nhà khoa học này được giải thưởng sẽ trở thành tấm gương, niềm cảm hứng cho giới trẻ tham gia nghiên cứu khoa học. Và khi có thêm nhiều người trẻ tuổi tham gia vào nghiên cứu, nhân rộng những giống lúa mới, đó là một điều kiện tiên quyết để bảo đảm an ninh lương thực cho Việt Nam trong tương lai.
Giáo sư Khush đã đi tiên phong trong việc tạo ra các giống lúa với khả năng kháng nhiều loại sâu bệnh, thời gian sinh trưởng ngắn, và cho năng suất cao, như IR8, IR36, IR64... Sự phát triển của các giống lúa sản lượng cao đã cách mạng hóa ngành trồng lúa lúa trên toàn thế giới, giúp tăng sản lượng đáng kể đồng thời giảm chi phí và giảm thiểu sự phụ thuộc vào các chất hóa học độc hại.
Không chỉ có thành công này, IR64 còn đóng vai trò là giống bố mẹ cho hàng nghìn giống lai trong nhiều thập kỷ cho tới ngày nay, điều minh chứng cho đóng góp to lớn của công trình này đối với an ninh lương thực toàn cầu.