Mỗi căn hộ, căn phòng, ngôi nhà là những cái lồng nhỏ. Những đứa trẻ là lũ chim non bị nhốt suốt ngày đêm sau những giờ phút hiếm hoi được chạy nhảy trên sân trường. Nhưng, như những con chim ra ràng thèm được bay nhảy, chuyền cành, chúng vẫn cuồng chân, bí bức, chỉ chờ có dịp là sổ lồng, tung cánh, vẫy vùng. Một năm học nặng trĩu cặp sách, triền miên học thêm, họa hoằn đôi ba lần được đi tham quan, dã ngoại chẳng bõ bèn gì. Thế nên mỗi khi nghe tin sắp được theo ông bà về quê chơi, lòng trẻ thấp thỏm, náo nức, mong chờ. Hơn cả một chuyến đi biển nghỉ mát mùa hè, năm nào cũng như năm nào, chán ngắt… Hai ngày nghỉ cuối tuần, vừa đủ cho một chuyến về quê. Đường không quá dài quá xa. Xe buýt đưa về tận ngõ, mất chừng hơn nửa giờ. Người nhẹ tênh, không phải vướng víu túi xách, ba-lô đầy quần áo, đồ ăn, thức uống như những chuyến du lịch. Lòng nhẹ bẫng không lo tàu xe chen lấn, dịch vụ, hàng quán “chặt chém”. Nỗi háo hức, bồn chồn trong mắt mấy đứa trẻ lan sang đôi mắt già.
Về quê, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi bà dứt áo ra đi lên thành phố theo chồng sinh cơ, lập nghiệp. Quên sao được một thời con gái đầu tắt, mặt tối, lấm lem bùn đất, phân gio. Những ngày mưa phùn, gió bấc, giá rét căm căm, chân lội bùn, tay cấy mạ non. Ngày qua ngày, đêm hết đêm triền miên, đơn điệu. Niềm vui lại ngắn ngủi, thoáng qua, như dăm ba sợi nắng hiếm hoi cho bớt tê tái. Ấy là những chiều kĩu kịt gánh lúa về sân đình. Trai gái tíu tít nói cười, đập lúa dưới trăng khuya. Là những sớm mai sương mù giăng mờ đục đất trời, chưa dứt tiếng gà gáy tàn canh, hai mẹ con đã vội vã trở dậy, bước thấp bước cao ra ruộng. Nhổ su hào, bắp cải, xà lách, hái cà chua. Năm luống rau, chất đầy hai gánh, hối hả rảo bước cho kịp phiên chợ sớm. Sương mù đục như nước vo gạo, ngỡ phải vén tấm màn mới rõ mặt người. Thực ra, họ đã biết nhau từ lâu. Không tỏ mặt, nghe giọng là nhận ra ngay những người chở xe thồ, xe đạp từ Hà Nội về buôn rau quả. Hồi ấy, tuyệt nhiên không có thuốc trừ sâu, phân bón hóa học. Càng không thấy thuốc tăng trọng, thuốc ép chín nhan nhản như bây giờ. Rau, củ, quả cứ tự nhiên tốt tươi, chín tới. Bà không thể nào tin nổi, khi người ta đồn rằng, có những nhà trồng rau, để riêng mấy luống không xịt thuốc, tưới hóa chất cho nhà mình ăn. Thảo nào dạo này, nhiều nhà hàng xóm bỏ cây cảnh, dọn dẹp ban công, sân thượng trồng rau xanh. Nhiều người lặn lội về quê, ra ngoại thành mua đất, thuê người trồng rau sạch, cho yên tâm… Lần này về quê, biết đâu bà lại được tận mắt thấy những quả ớt, bắp cải, su hào, bầu bí, những nải chuối, đu đủ… được tưới tắm, “tẩm độc” ra sao. Nhưng, cái chính là dắt lũ trẻ đi chợ quê. Thả trẻ ra đồng chạy nhảy, hít đầy hương lúa, mùi cỏ, gió tươi mới, chưa đủ. Đã bao giờ chúng được lang thang mọi góc chợ, hít thở mùi rau tươi vừa nhổ hái trên ruộng, dính nguyên bùn đất. Hay sà vào góc chợ bày bán lợn gà, chó mèo… Mới nghe bà kể, đám trẻ nhấp nhổm, đứng ngồi không yên. Xe vừa đỗ, cửa vừa bật mở, chúng ùa xuống, hò reo, chạy túa vào làng. Tự nhiên, thoải mái đón gió lộng, hít thở khí trời. Tưởng như rơi vào một miền đất xa lạ, tách biệt hẳn chốn ồn ào, huyên náo xa tít ngoài kia. Dường như ngay sau lưng có một bức tường rất dày, rất cao vô hình vừa được dựng lên, ngăn mọi âm thanh, tiếng động. Che lấp mọi gương mặt, hình ảnh phía sau. Nhất là khi đám trẻ quê ùa ra ríu rít nói cười. Như chim nhập đàn, chúng nắm tay nhau chạy một mạch băng qua rặng duối, rồi mất hút giữa cánh đồng rau vụ đông xanh bất tận. Phong phanh áo mỏng, chân trần lội bùn đất, lũ trẻ chìm giữa mầu xanh lá cây tươi non, mềm mại. Đến khi trời sập tối, chim bay về tổ, gà lên chuồng, chúng còn nấn ná hái vội bó hoa cải vàng...
Được “tắm” trong hương đồng, gió nội, lại được thưởng thức bữa cơm tối những món đồng quê, canh cua, cà pháo, tép rang khế chua, ngon hơn đặc sản nhà hàng, những đứa trẻ lăn ra ngủ say sưa. Ôm trong lòng nỗi hồi hộp sáng mai sẽ được đi chơi chợ, nên chỉ nghe tiếng bà đánh thức, chúng nháo nhào bật dậy. Mắt nhắm, mắt mở, bước thấp, bước cao bám theo chân bà. Con đường thời con gái, hun hút gió đồng, giờ nhà cửa che kín, chừa lại khe hở. Bê-tông trải đến tận cửa chợ không thể nhầm được, nhưng tất cả đã khác nhiều lắm. Ngôi chợ bé hẳn đi, co ro trong một góc đất nhỏ hẹp ở cuối làng. Vẫn liêu xiêu lều quán tuềnh toàng, tạm bợ, vẫn đầy ngộn rau xanh, củ tươi, quả chín. Rồi cả một dãy dài che phên, cót, ni-lông, dậy mùi quà quê: bánh đúc, bún riêu, bánh cuốn, bánh đa nướng; những bánh tẻ, bánh nếp, bánh chưng, bánh dày xếp đầy mẹt. Lũ trẻ sà ngay xuống chẳng khác đám chim sẻ háu ăn. Mấy chục năm rồi, mùi vị dường như vẫn thế. Nghĩ tội nghiệp cho mấy đứa cháu, quanh năm suốt sáng tới trường, uể oải, ngắc ngứ bánh mì kẹp thịt, bơ sữa. Nhịp sống tuần tự trôi đi, như đã được lập trình sẵn đâu có được những phút hiếm hoi như lúc này. Mê mẩn vuốt lưng mấy chú lợn giống mũm mĩm, bế nựng những gà con, vịt con mịn óng tơ vàng. Mải mê chơi đùa với đàn chó con bên cạnh mấy lồng chim bồ câu, cu gáy… Chẳng đứa nào muốn dứt đi ngay. Cho đến khi bà kéo tay sang mấy quán bán chè lam, kẹo kéo, kẹo dồi, nặn tò he, lũ trẻ mới nhận ra còn nhiều thứ mới lạ, từ bé chưa bao giờ được thấy. Chưa được nếm vị ngọt dịu, khác hẳn kẹo mút ngọt sắc bọc giấy mầu sặc sỡ, mà dư vị còn đọng mãi khi trở về thành phố.
Nấn ná, dùng dằng mãi cũng đến lúc phải ra về. Bà còn tiếc rẻ mua mấy cây chổi đót, mấy đứa cháu đứng tần ngần dù chợ đã vãn người. Đứng lặng yên như để thu hết vào mắt những mái lán, lều quán lụp xụp. Nhếch nhác, lam lũ mà gần gũi. Nhớ nhất hương vị, mùi chợ quê mới gặp lần đầu đã bịn rịn, khó rời, khó quên...