20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ phá máy làm hiệu lệnh cho quân, dân Thủ đô chủ động tấn công thực dân Pháp xâm lược. Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Thủ đô Hà Nội vinh dự được Trung ương Đảng và Bộ Tổng Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, bảo toàn lực lượng của ta, cầm chân giặc để Chính phủ có thời gian tổ chức và huy động lực lượng toàn dân kháng chiến làm thất bại bước đầu chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Chiến khu Hà Nội chia thành ba liên khu: Liên khu I, II và III hình thành nên thế trận liên hoàn, trong đó Liên khu I là trung tâm mặt trận, nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt nhất.
Liên khu I bao gồm bảy khu phố và một xã ngoài bãi sông Hồng: Trúc Bạch, Đồng Xuân, Đông Thành, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hoàn Kiếm, Long Biên và xã Phúc Xá. Hưởng ứng lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các chiến sĩ vệ quốc đoàn, tự vệ với các vũ khí thô sơ như súng trường, lựu đạn, bom ba càng, mã tấu, dao, kiếm, chai xăng… dựa vào chiến lũy, chướng ngại vật, hầm hố, lợi dụng nhà gác, góc phố… đã làm nên thế trận chiến tranh nhân dân, đẩy lùi liên tiếp các cuộc tấn công của quân địch với xe tăng, thiết giáp, máy bay yểm trợ.
Trước khi tham gia chiến đấu tại Liên khu I, anh Nguyễn Trọng Hàm đã có nhiều năm tham gia cách mạng. Vì vậy, khi đứng trong hàng ngũ các chiến sĩ của Liên khu I, Nguyễn Trọng Hàm được giao nhiệm vụ làm Trung đội trưởng Trung đội 2, Tiểu đoàn 102. Thời gian đã lùi xa nhưng ký ức của những năm tháng hào hùng 68 năm trước dường như vẫn vẹn nguyên trong ông. Đại tá Nguyễn Trọng Hàm kể lại, Liên khu I nằm kề đại bản doanh của Bộ Chỉ huy quân Pháp giữa lòng Hà Nội nên được ví như một "chốt chặn thép" găm ngay vào sườn địch. Được giao nhiệm vụ chiến đấu trên những con phố thân thuộc mà gia đình chúng tôi nhiều năm sinh sống, cho nên phương châm đề ra là phải nhất định phải thắng. Để chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến, trên những con phố được xác định trước là địch sẽ đi qua, ta đều cài mìn, bố trí chướng ngại vật. Lấy thô sơ thắng hiện đại, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh đó là phương thức tác chiến của các chiến sĩ Liên khu I ngày ấy. Với tinh thần ngoan cường, dũng cảm trong 60 ngày đêm khói lửa ấy, quân và dân Hà Nội không chỉ hoàn thành nhiệm vụ kìm chân địch trong nội thành, ngăn chặn chúng đánh ra các vùng lân cận, mà còn phá vòng vây của địch, bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và nhân dân Thủ đô sơ tán ra vùng căn cứ cách mạng an toàn.
Trong đội hình chiến sĩ cảm tử quân của Liên khu I năm xưa có cậu học sinh Nguyễn Huy Du vừa tròn 16 tuổi. Được giao nhiệm vụ cùng đồng đội bảo vệ các khu phố cổ ở phía thành Cửa Đông, chặn Pháp để chúng không đánh ra phía ngoài, Nguyễn Huy Du và đồng đội đã không quản ngại gian khó, chiến đấu anh dũng bảo vệ Hà Nội. Cậu học sinh Nguyễn Huy Du giờ đã là người lính mang quân hàm Đại tá, ông kể: “Sau một tuần thành lập, ngày 13-1-1946, trong lễ tuyên thệ tại Rạp hát Tố Như (nay là Rạp Chuông Vàng trên phố Hàng Bạc), những người lính của Liên khu I đã cùng nhau thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Dù vũ khí vô cùng chênh lệch, nhưng nhờ tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chúng tôi đã quần nhau với giặc suốt hai tháng trời, tổ chức nhiều trận đánh gây tiếng vang lớn như trận nhà Xô Va (nay là số 160 phố Trần Quang Khải), nhà nước mắm Vạn Vân ở phố Trần Nhật Duật, trường Ke (nay là Trường tiểu học Trần Nhật Duật) và nhiều trận đánh khác.
Với Đại tá Vũ Kiểm thì Liên khu I chính là xuất phát điểm quan trọng cho cuộc đời binh nghiệp của mình. Cả gia đình bị chết đói năm 1945, cậu thanh niên Vũ Kiểm phiêu dạt lên Hà Nội và tự kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau. Khi mọi người tiến về Quảng trường Nhà hát Lớn, cậu đã đi theo đoàn người biểu tình cướp chính quyền. Ngày 19-8-1945, cuộc biểu tình tuần hành vũ trang của quần chúng thành công, Vũ Kiểm đã chính thức đi theo cách mạng. Khi tham gia vào đội hình của Liên khu I, Vũ Kiểm được phân công làm Tổ trưởng tổ liên lạc với nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội chiến đấu và nhận lệnh của Đại đội, Trung đội chuyển thông tin tới các chốt… Đại tá Vũ Kiểm chia sẻ: “Vũ khí của ta so với địch rất hạn chế, để cầm cự và giam chân địch, ta vừa khôn khéo nhưng cũng phải chiến đấu rất ác liệt. Các chiến sĩ Liên khu I đục tường từ nhà này sang nhà khác để dễ dàng cơ động khi địch đánh phá. Phía ngoài đường, ta chất tất cả giường, tủ, bàn để chặn xe tăng địch. Nhiều trận ta và địch đã giằng co từng góc phố, căn nhà. Oanh liệt nhất phải kể đến các trận đánh ở phố Hàng Thiếc, trận Xô Va, Bắc Bộ Phủ, trận Bờ Hồ và đặc biệt là trận chiến đấu tại chợ Đồng Xuân…”. Đến cuối giờ chiều 17-2-1947, Trung đoàn Thủ đô (tên gọi sau này của Liên khu I) lặng lẽ rút ra khỏi Hà Nội để trở về Việt Bắc.
Gần 70 năm đã trôi qua, những con phố thân quen nơi diễn ra các trận đánh của chiến sĩ Liên khu I của mùa đông năm 1946 vẫn lặng lẽ chứng kiến biết bao sự đổi thay của Hà Nội, trong đó có sự trưởng thành của một thế hệ sĩ quan quân đội, những chiến sĩ quyết tử mùa đông năm ấy...