Tính ra, quý này, ông Trì về quê có dễ đã đến bốn năm lần. Nếu không về được ông luôn thấy như mình có lỗi. Có thể, càng có tuổi, những người xa quê như ông lại càng thấy mình nặng nợ với tiền nhân, với quê hương. Ông còn là Trưởng ban liên lạc những người Liên Khê sống tại Hà Nội. Mặc nhiên ông trở thành đầu mối của tất cả những người làng Liên Khê, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy đang làm ăn ở các tỉnh ngoài.
Làng Liên Khê, cái làng thuần nông khuất lấp áp sát bờ tả con sông Trà Lý, nơi mà chỉ vài cây số nữa thôi, con nước chi lưu sông Hồng này òa ập vào với sóng bể Đông. Cái làng mà tên làng từ nghìn đời nay còn gắn với tên của một bến sông cách trở, nối mấy xã của huyện Thái Ninh với huyện Kiến Xương cùng tỉnh: Bến đò Liên Khê. Đó là bến của con đò nan mỏng mảnh in như tiếng gọi đò lỡ chuyến âm âm mặt nước trong màn sương đục lấn lên từ biển mỗi chiều. Cái làng mà chỉ dăm năm về trước đây thôi, còn chưa có đường ô-tô về được tới cổng. Cái làng của một trong mấy xã vùng trũng được coi là nghèo khó nhất huyện và cũng là nhất tỉnh Thái Bình những năm chưa xa. Vậy đó mà đã mấy chục năm trời… Nay, làng Liên Khê có đến vài chục gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Thu nhập họ gửi về đã góp phần làm Liên Khê đổi mới. Làng mạc khang trang, nhà nhà no đủ, Tết về, gương mặt người dân vùng độc canh cây lúa này, vì thế cũng rạng ngời hơn thì phải (!).
Cũng theo ông Trì, có chụm lại mới thấy được sự trưởng thành của người dân Liên Khê khi ra ngoài thiên hạ. Ngoài đội ngũ trí thức gồm hàng trăm người có bằng đại học và sau đại học làm việc ở trong và ngoài tỉnh, đến nay, cũng có hàng chục người dân Liên Khê đang làm chủ các doanh nghiệp ăn nên làm ra ở khắp ba miền Tổ quốc.
Giở lại lịch sử Thái Bình. Miền đất Thần Khê, Sơn Nam Hạ này ngay từ ngày lập tỉnh (21-3-1890) đã có số dân lên tới hơn 800.000 người và là một trong những tỉnh đông dân nhất đồng bằng Bắc Bộ. Đến nay, dân số Thái Bình là 1.900.000 người, thì cũng có khoảng từng ấy nhân khẩu có quê gốc Thái Bình làm ăn ngoài tỉnh.
Thật ra, lịch sử hưng phế của mỗi vùng đất luôn gắn liền với di biến động dân cư sở tại. Về cái sự ra đi của người Thái Bình từ ngày lập tỉnh có thể chia thành ba thời điểm khác nhau. Trước năm 1940, từ năm 1940 đến 1960 và từ năm 1960 đến nay. Trước những năm 40 của thế kỷ trước, người Thái Bình có mặt ở nhiều nơi nhưng chủ yếu là vào các tỉnh đồng bằng và các đồn điền miền Đông Nam Bộ. Sau năm 1940, nhất là năm Ất Dậu (1945), phần lớn người Thái Bình ra đi là để trốn chạy nạn đói kinh hoàng. Năm ấy, Thái Bình chết đói hơn 20.000 người. Những người nông dân chân lấm tay bùn bị cái đói hất văng ra khỏi các làng quê, họ đến các thành phố và sau đó là tìm lên “mạn ngược”, chủ yếu là các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn. Sau những năm đó người Thái Bình vẫn tiếp tục ra đi và cũng lại có không ít những người tìm về quê cũ.
Vật võ cổ truyền chùa Phổ Linh, Thái Thủy (Thái Thụy, Thái Bình) 2016.
Nhưng rồi phải đến năm 1960 trở đi, khi Nhà nước thực hiện kế hoạch đưa dân đồng bằng lên khai hoang miền núi thì việc di dân từ Thái Bình mới được thực hiện một cách bài bản. Đã có hàng vạn nhân khẩu từ các làng quê Thái Bình được đưa lên Tây Bắc và sau này là các tỉnh Đông Nam Bộ. Để hôm nay, còn gặp ở nơi này những làng quê mang đậm bản sắc văn hóa cư dân vùng biển. Họ đem đến quê mới âm sắc đặc thù không thể lẫn của vùng đồng chua nước mặn. Họ còn đem theo cả câu hát chèo và những điệu ru con, khiến có người đi xa phải giật mình khi gặp lại giọng nói, lời ru quê gốc, ở một bản làng heo hút, vào một chiều cuối năm thấm lạnh. Họ đem lên quê mới cả giống cây, giống quả của quê hương đất mật… Và, cũng chính họ đã góp người, góp của, góp cả bản sắc văn hóa của châu thổ sông Hồng làm thay đổi những vùng rừng heo hút.
Không khí Tết Đinh Dậu đang đậm dần trong các làng mạc thanh bình. Chợ búa đã tấp nập hơn, người người đang hồ hởi sửa sang nhà cửa, sắm sanh đồ lễ đón xuân. Con đường trải nhựa đẹp dẫn về từ thành phố qua mạn Tiền Hải làm ngỡ ngàng những người trở về sau một năm xa cách.