Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác sau 16 năm thành lập (cuối tháng 4-1991) đến nay đã có một cơ ngơi bề thế với 300 giường điều trị.
Tiền thân là Khoa bỏng thuộc Bệnh viện 103 (Học viện quân y) Anh hùng, Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác được thành lập vào cuối tháng 4-1991, với các nhiệm vụ chủ yếu: nghiên cứu các phương pháp phòng và chống bỏng, theo dõi, hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật chuyên ngành bỏng trong cả nước, khám và điều trị bỏng cho nhân dân và quân đội, cũng như các di chứng bỏng do các bệnh viện tuyến dưới chuyển lên...
Vừa củng cố ổn định, vừa khắc phục những khó khăn, hạn chế để xây dựng phát triển, là nét nổi bật trong sự nỗ lực của tập thể cán bộ, nhân viên Viện Bỏng quốc gia.
Ðại tá, GS, TS Lê Năm, Giám đốc Viện Bỏng quốc gia cho biết: Mười sáu năm qua, Viện thu dung, điều trị hơn 40 nghìn lượt người bệnh, cấp cứu hơn 15 nghìn trường hợp bỏng nặng từ các địa phương trong cả nước gửi về. Là cơ sở chuyên khoa tuyến cuối nhưng hễ xảy ra các vụ thảm họa, cháy nổ bất cứ thời điểm nào, cán bộ, thầy thuốc Viện Bỏng quốc gia đều có mặt tham gia cấp cứu và điều trị. Người ta chưa quên những vụ thảm họa, cháy nổ gây thương tích và bỏng hàng loạt như vụ cháy xe khách Sơn La (năm 1996), cháy khí mê-tan ở mỏ than Mạo Khê (1999), cháy nổ xe khách ở Ðại Bái, Bắc Ninh (2003)... các thầy thuốc Viện Bỏng không quản ngại thời gian, ngày nghỉ, đêm hôm có mặt vì sự sống của người bệnh. Ngay dịp Tết Ðinh Hợi vừa qua, vụ cháy nổ ga tại Hưng Nguyên (Nghệ An), gần 40 trường hợp phải chuyển ra Viện Bỏng, trong đó không ít người bị bỏng hô hấp nặng, cho nên đơn vị đã phải bố trí khoảng 100 y, bác sĩ và điều dưỡng viên (các Tết trước chỉ bố trí 50-60 người) để cứu chữa, chăm sóc. Nhờ vậy trong vụ thảm họa nói trên, số người bệnh được chuyển ra Viện Bỏng đều được cứu sống hoàn toàn; đưa tỷ lệ tử vong quý I-2007 giảm xuống đáng kể (chỉ hơn 1%).
Theo Thạc sĩ Ðỗ Lương Tuấn, Chủ nhiệm Khoa bỏng người lớn thì ngoài các trường hợp mắc bỏng thông thường (bỏng nước sôi, bỏng vôi, điện giật, a-xít, xăng, dầu...), những năm gần đây, viện tiếp nhận các trường hợp bị tổn thương da do bị chấn thương mất phần mềm lớn, loét khó liền trong một số bệnh nội khoa (vì nằm nhiều), hoại tử phần mềm do rắn cắn... để điều trị. Từ năm 2000 về trước, tỷ lệ tử vong do bỏng thường dao động từ 4 đến 8%; nhưng mấy năm trở lại đây, tỷ lệ này giảm xuống còn 2 - 3%. Ðáng chú ý khá nhiều người bệnh mắc bỏng hơn 80% diện tích cơ thể, và bỏng sâu 52% (ở người lớn); còn ở trẻ em, các trường hợp bị bỏng 80% diện tích cơ thể và sâu 52% đã được cứu sống. Ðặc biệt không ít người bệnh bỏng có các biến chứng nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc, suy thận cấp, chảy máu tiêu hóa... nếu trước đây chỉ chờ chết thì nay, các thầy thuốc xử lý một cách thuận lợi, an toàn.
Có được các thành tựu đáng khích lệ này, thời gian qua đội ngũ cán bộ, thầy thuốc Viện Bỏng quốc gia luôn luôn coi trọng hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ vào việc điều trị, chăm sóc người bệnh. Viện triển khai, thực hiện có hiệu quả hai đề tài cấp nhà nước, hai đề tài nhánh cấp nhà nước, hàng chục đề tài cấp bộ; bốn đề tài hợp tác nghiên cứu với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thụy Ðiển, Singapore, hai nghị định thư về chuyển giao công nghệ nuôi cấy nguyên bào sợi với CHLB Nga và vi phẫu thuật với Nhật Bản... Trong đó phải kể đến những đề tài có giá trị thực tiễn lâm sàng như: nghiên cứu công nghệ sản xuất một số chế phẩm sinh học thay thế da tạm thời và thuốc nam ứng dụng trong điều trị bỏng, nghiên cứu, ứng dụng bảo quản trung bì da lợn đông khô và tiệt khuẩn bằng tia gam-ma trong điều trị bỏng; hiệu quả của siêu lọc máu liên tục điều trị người bệnh nhiễm độc, nhiễm khuẩn do bỏng nặng, phương pháp nuôi dưỡng sâu đường tiêu hóa đối với người bỏng nặng... Cũng từ đây, kết hợp việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị hiện đại: máy lọc máu thế hệ mới, máy chẩn đoán độ sâu tổn thương bỏng, thiết bị khía da mắt lưới, dao điện lấy da, các kỹ thuật công nghệ mới được áp dụng thường xuyên trong điều trị bỏng.
Viện Bỏng quốc gia cũng đã nghiên cứu, sản xuất các loại thuốc có nguồn gốc từ thảo dược trong nước, phục vụ thiết thực công tác điều trị bỏng: B76, mađuxin, selapi, BT91 bảo đảm chất lượng, hạ giá thành chi phí tài chính cho người bệnh. Ðồng thời Viện đang triển khai ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy tế bào sừng da tự thân và tế bào mầm lấy từ cuống rốn trẻ sơ sinh; và tiến tới sản xuất da nhân tạo nhằm phục vụ tốt hơn công tác điều trị các ca bỏng phức tạp.
Ðại tá bác sĩ Phạm Văn Gia, Chính ủy Viện Bỏng quốc gia, trao đổi ý kiến với chúng tôi: kết hợp quân - dân y ở đơn vị không chỉ thể hiện ở công tác khám, chữa bệnh (hơn 80% là dân) mà còn ở nhiều mặt hoạt động khác. Hơn mười năm qua, cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho hàng nghìn bác sĩ, cử nhân điều dưỡng chuyên ngành bỏng trong và ngoài quân đội, bộ môn bỏng (Học viện quân y) đã góp phần đào tạo và bảo vệ thành công gần 20 tiến sĩ, hàng chục thạc sĩ và bác sĩ chuyên khoa 1, chuyên khoa 2, cho các cơ sở y tế trong và ngoài quân đội.
Là đơn vị tuyến cuối của ngành bỏng, công tác chỉ đạo tuyến thường xuyên được Viện quan tâm không ngoài mục đích góp phần khắc phục sự thiếu hụt của mạng lưới phòng, chống bỏng tuyến dưới. Những năm qua, phối hợp Hội đồng tư vấn y học thảm họa quốc gia, đơn vị mở nhiều lớp tập huấn cho khoảng 1.000 cán bộ, kỹ thuật viên thuộc các địa phương trong cả nước về xử lý ban đầu, cấp cứu và điều trị bỏng, nhất là bỏng hàng loạt do các vụ cháy nổ.
Ghi nhận những thành tích, đóng góp của Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác, Ðảng, Nhà nước, quân đội đã tặng thưởng đơn vị hàng chục Huân chương Chiến công, Lao động các hạng và nhiều cờ thi đua "đơn vị xuất sắc", "dẫn đầu" của Chính phủ và ngành y tế. Tháng tư này, nhân kỷ niệm 16 năm Ngày thành lập (25-4-1991 - 25-4-2007), Viện vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới do Chủ tịch nước phong tặng.