Thật ra, là khám phá chính dãy núi thâm u, cao vót - nơi đã nuôi sống biết bao người, vùng quê nghèo Sông Lô (Vĩnh Phúc) trong đó có cả tôi và mấy đứa em tôi ngày nào bằng những gánh củi nặng oằn lưng và cơ man những củ mài, sắn, rau rừng, măng tre, chuối, mít...
Hai mươi năm rồi xa quê, xa núi Sáng (hay còn gọi là Sáng Sơn), có về cũng là thoảng qua vội vã, chẳng có dịp nào mà trèo lên núi Sáng, nên câu mời gọi của bạn như cứa vào lòng tôi một vệt sáng sắc, rọi lại khoảng ký ức đầu đời, nhất là những vạt rừng già đầy cây cỏ, hoa lá rậm rạp với đủ thứ nuôi sống người trên núi Sáng dội lên như sóng, vừa rực rỡ vừa u buồn, đắng đót. Nên, khi chúng tôi vừa đặt chân lên núi Sáng, bao kỷ niệm thuở thiếu thời bỗng ập đến, khiến tôi nao lòng. Lần đi này, may mắn cho tôi được gặp anh Nguyễn Quang Trung, người bản địa dưới chân núi Sáng đi lên núi chăm sóc vạt rừng khoán 50 năm cùng đi và cũng là người chỉ cho tôi biết thêm nhiều điều, mà trước đây, có chỗ tôi đã từng đặt chân lên mà không biết.
Với không ít người dân Tam Sơn quê tôi cũng như dân các xã Ðồng Quế, Lãng Công - những xã ven chân núi Sáng thì vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước, núi Sáng không chỉ là cảnh quan, là "mái nhà" của người dân vùng Tây Bắc huyện Lập Thạch (nay là huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc), mà còn là nơi mang đến cho người nghèo chúng tôi nguồn sống chính. Những măng giang, măng nứa, rau, nấm, củ mài, quả dại làm thức ăn độn lấy từ núi Sáng. Phải gọi chúng là nguồn "lâm thực" chống đói giáp hạt mới đúng. Mỗi đận ngày ba, tháng tám, hay khi đồng trắng nước trong... người dân nghèo quê tôi ào lên núi Sáng. Ở những vạt đất rừng tương đối bằng phẳng, người quê tôi phát rậm, đốt nương vỡ đất tra ngô, trồng sắn. Ðất thương người mà màu mỡ hay là bởi cảm thông với những giọt mồ hôi người chan chan chảy mà ngô, lúa, sắn trồng ở núi Sáng đều xanh tốt lạ thường.
Thuở ấy, chị em tôi khoảng mười tuổi đã rủ nhau trốn mẹ theo bạn dậy từ gà gáy canh ba để "đi núi". Chẳng biết từ khi nào, người dân quanh chân núi Sáng đều gọi việc lên núi kiếm rau, hái nấm, mót măng, tìm quả dại và cả làm nương là "đi núi". Khoảng ba giờ sáng, nếu vào mùa đông, sương còn giăng mù mịt, từng đoàn người đã thức dậy. Ðôi quang cặp, cái thuổng, con dao quắm xổng xểnh trên vai, bên thắt lưng. Chúng tôi lầm lũi nối gót nhau "đi núi". Từ nơi chúng tôi ở đến chân núi thôi đã bảy tám cây số; có nơi xa hơn. Toàn đường đất, đầy vết lõm những chân trâu, chân bò và sỏi đá mấp mô lổn nhổn, nhưng vẫn còn là đường đồi tương đối bằng, dễ đi. Phải đến chân đập tràn hồ Bò Lạc, hành trình leo núi kiếm cái ăn của chúng tôi mới bắt đầu với đủ mọi sự cực nhọc của cảnh sơn tràng. Gạt cây lá, mở lối mà đi trong cảnh trời vẫn còn tối mò chốn rừng hoang núi rậm, những tốp người nhọc nhằn bám lấy nhau dấn bước. Muốn có gánh củi, túm nấm, hay chục mớ măng, hoặc vác nứa, bó giang, củ mài... chúng tôi phải trèo qua mấy quả núi thấp mọc toàn lau lách, sim mua buồn bã bên ngoài mà lần vào ngọn núi cao nhất bên trong dãy núi Sáng. Trèo núi, đường đi chỉ đủ một vết chân người đi trước giẫm lên lau lách, vết chân người đi sau lại đạp lên, mãi mà thành. Cây cối hoang rậm, sương núi ẩm ướt, lạnh buốt, muỗi, vắt nhao nhao. Nhưng cái đói khi ấy khiến chúng tôi bất chấp tất cả mà dấn bước. Ðến được đỉnh núi cũng vừa lúc trời sáng, chúng tôi hối hả lao vào nhặt nhạnh tìm kiếm. Kẻ chặt củi, người tìm măng, người lấy nứa, người ngả cây đẽo gỗ. Vẻ thâm trầm của núi rừng đã bị những nhát dao phát, rìu bổ củi chát chúa phá vỡ. Non trưa, tất cả mọi người lại hối hả gom nhặt những thứ vừa kiếm được để chuẩn bị xuống núi. Già nửa ngày đã trôi qua, bụng đói, chân run, gánh nặng rát vai, đường rừng cheo leo đèo dốc, hoặc chênh vênh bên bờ vực thẳm. Nhưng không ai kêu than. Vẫn lầm lũi, nặng nhọc cắm cúi nối đuôi nhau lần đường trở về. Những gánh củi đứng cao vượt đầu người, những móm cọ (một dạng sọt đeo vai của người miền núi đan bằng cành cọ chẻ ra) lộm nhộm rau, măng lẫn nấm. Có người còn đèo thêm khúc thân cây chuối rừng làm thức ăn cho lợn. Thuở ấy, người quê tôi có câu nói cửa miệng "Gánh củi - đổi cơm" là thế, bởi có không ít nhà quanh năm thiếu đói, ngay cả nhà tôi cũng vậy. Ngày mùa mà bới mãi mới thấy mấy hạt cơm, trong nồi toàn sắn hoặc khoai độn. Con đông, ruộng vườn lèo tèo rơm rạ, nên gặt xong cũng là hết gạo. Lại đòn gánh quang cặp dao phát móm cọ trên vai luồn rừng chặt củi, mang ra chợ Then bán lấy tiền đong gạo cầm bữa qua ngày. Ðã "gánh củi đổi cơm" thì dù đắt dù rẻ cũng phải bán, cho dù "đi núi" kiếm được một gánh củi là cả một quá trình vô cùng cực nhọc. Có những khi, gánh củi nặng nửa tạ, gánh oằn đòn, chai vai người mà tiền bán chỉ đủ đong hơn cân gạo. Bát cháo cầm hơi qua bữa, mồ hôi, nước mắt mặn chát môi người. Cực nhọc là thế nên người quê tôi rất thấm thía cái câu "Ăn của rừng rưng rưng nước mắt". Thế nhưng, không luồn rừng kiếm cái ăn qua ngày thì người quê tôi khi ấy cũng chưa biết sẽ sống ra sao.
Cũng bởi của rừng không là vô tận, "miệng ăn núi lở mà"! Vừa bị cái sự đói hành hạ, vừa thiếu sự hiểu biết cũng như ý thức của chính những người dân chúng tôi mà ngay từ ngày ấy, núi Sáng đã bị bòn đãi mòn mỏi. Các nương ngô, sắn, lúa mộ cũng theo chân người mà lấn dần rừng xanh. Nhiều rẻo nương nằm cheo leo vắt vẻo lưng chừng núi. Những hôm trời quang mây, đứng ở sân nhà nhìn lên núi Sáng thấy khói lửa đốt nương mù mịt cháy, thấy rất rõ rừng xanh đang bị bàn tay con người cắt dọc xẻ ngang thành những vệt nương rẫy xác xơ, loang lổ, chỗ thì đen xì than cháy, chỗ thì nâu sạm, trơ đất... mà mơ hồ lo sợ...
Rồi chúng tôi cũng lớn lên trong nhọc nhằn lam lũ. Vì cơm áo, sự nghiệp, nhiều thế hệ người đã lần lượt rời quê, mang theo gót chân nứt nẻ, bàn tay thô nháp, đôi vai chai sạn thời thiếu đói cùng một khát khao thay đổi số phận ra đi tìm cuộc sống mới. Cuộc sống với đủ mọi cung bậc của nó đã dạy chúng tôi nhiều điều. Những cơn cuồng nộ của thiên nhiên trên khắp mọi miền, rồi hình ảnh của trận lụt kinh hoàng do vỡ đê sông Lô năm 1971 ngay tại quê nhà hiện về, càng làm tôi thấu hơn cái nỗi mơ hồ lo sợ khi nhìn thấy những ngọn lửa đốt nương trên núi Sáng năm xưa. Lòng tự hỏi lòng: Ðã có bao nhiêu ngọn núi như núi Sáng trên thế gian này bị tàn phá?
Cũng vì cái đói chăng, hay vì tuổi thơ còn ấu trĩ, mà thuở ấy tôi đã không nhận thấy núi Sáng là một món quà đẹp của thiên nhiên ban tặng cho vùng quê tôi như viên ngọc xanh điểm tô cho con sông Lô như dải lụa bạc hiền hòa chảy dưới chân núi Sáng. Khi lớn rồi, tôi mới biết, trên dãy núi Sáng còn lưu giữ những dấu ấn lịch sử văn hóa quý giá của quê nhà và cả vùng trung du này.
Trước mặt làng tôi là dòng Lô, sau lưng làng là núi Sáng với độ cao hơn 630 m, giống như một bức thành vững chãi, một tay ngai cho thế đất "rồng cuốn hổ chầu". Ngày trời đẹp, từ xa nhìn lại, Sáng Sơn nổi lên xanh thẫm một vẻ trầm mặc. Xa xa, chênh chếch bên tay phải là dãy Tam Ðảo sừng sững chọc ngang trời. Sáng Sơn từ xa xưa đã được nhà bác học Lê Quý Ðôn mô tả trong sách Vân Ðài loại ngữ rằng: "Núi Lịch ở địa phận xã Yên Lịch, huyện Sơn Dương, trấn Tuyên Quang. Mạch núi từ núi Sư Khổng, huyện Ðương Ðạo kéo xuống, đến đây năm, sáu ngọn núi đất bày hàng đột khởi ngay ở đồng bằng, chia một chi đổ xuống huyện Lập Thạch làm núi Sáng; còn ở mặt dưới huyện Tam Dương là núi Hoàng Chỉ" (nay là núi Con Voi ở thôn Dương Chỉ, huyện Lập Thạch).
Núi Sáng gắn liền với những địa danh liên quan những huyền thoại từ thuở hồng hoang dựng nước của cha ông ta như bãi Bách Bung. Trên núi Sáng tự thuở nào có một ngọn mang tên gọi Bách Bung. Tên gọi này đã được sách Vân Ðài loại ngữ giải thích rằng: "Núi Sáng là ngọn cao nhất trong dãy núi Lịch. Ðỉnh núi có dăm sáu chỗ bằng phẳng như cung điện, có đền thờ Ðế Thuấn. Xứ ngòi Vực về bên phải hằng năm có nước sông Lô tràn vào. Tương truyền chỗ ấy là bến sông, ngày trước thường nặn đồ nung. Bên cạnh chỗ dân cư, có một cái giếng cổ, người ta cho là Ðế Thuấn đào giếng ấy. Ở đây cũng có miếu thờ Ðế Thuấn. Trước miếu có ruộng chiêm, rộng chừng vài mẫu, khá sâu, người ta cho đấy là chằm Lôi Trạch. Ngày trước Ðế Thuấn cày ruộng và đánh cá ở đây. Trên núi Sáng cũng có đền thờ Ðế Thuấn. Ðằng trước núi lại đột khởi một ngọn núi đất hơi thấp, đỉnh núi như hình ghế chéo, trong núi có chỗ rộng ước dăm sào, có thể gieo được trăm bung mạ (mạ nhổ lên chờ cấy được buộc lại gọi là bó hoặc đon mạ, mỗi đon mạ khoảng ba đến bốn chét tay, để gánh ra ruộng cấy được dễ dàng, người ta dùng lạt tre bánh tẻ xâu các đon thành bung, cứ 40 đon mạ là một bung). Ngày trước, cứ mỗi sào ruộng cấy hết hoảng 15 - 20 đon, trăm bung mạ là khoảng 4.000 đon cấy được khoảng 5 sào. Tương truyền khoảnh đất ấy là nơi Ðế Thuấn cấy lúa, nên dân ta mới gọi là bãi Bách Bung.
Núi Sáng còn là điểm tựa vững chắc gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giữ nước của cha ông ta. Sử sách còn lưu rằng: Vào năm 1909 đầu thế kỷ 20, Bách Bung là căn cứ đóng quân của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám khi từ Yên Thế sang. Dựa vào địa thế hiểm trở và công sự kiên cố, ngày 5-10-1909. Ðề Thám đã cùng 40 nghĩa quân của ông làm nên trận núi Sáng lịch sử khiến đạo quân của viên quan năm Pháp và tên khâm sai Việt gian Lê Hoan phải bạt vía kinh hồn. Trận đánh của Ðề Thám trên núi Sáng năm ấy đã khiến thực dân Pháp phải thú nhận "cuộc giao chiến này là một trận đẫm máu nhất trong suốt quá trình chinh phục người cầm đầu nghĩa quân nổi tiếng này".
Núi Sáng còn ẩn giấu trong thẳm sâu mầu xanh cây lá và vẻ trầm mặc của nó một cảnh quan kỳ vĩ, hùng vĩ và rất ngoạn mục. Ngay chân hồ Bò Lạc, là núi Hình Nhân - quả núi mang hình một người đàn bà mang thai đang nằm nghỉ. Bên cạnh có một chiếc nón úp là trái núi có tên gọi Nón Treo, cạnh đó là núi Con Voi (quả núi mang hình một chú voi to lớn đang nằm phủ phục). Trước núi Hình Nhân là Ðồi Chúa, nơi có di tích chùa/tháp Kim Tôn đã bị hoang phế nhiều năm - một di tích lịch sử văn hóa cùng thời với tháp Bình Sơn nổi tiếng - nay đang được Nhà nước ta khai quật và tổ chức phục dựng lại trong hình ảnh Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Ðức. Ði sâu thêm vào núi, ta sẽ gặp một tập hợp bảy ngọn thác, trong đó thác cao nhất và đẹp nhất. Nước thác giội từ trên cao xuống tung bọt nước thành bụi nhỏ li ti bay lan tỏa như sương, như khói, vì vậy, nó được người dân trong vùng đặt cho cái tên thật giản dị: Thác Bay.
Thác Bay được tạo nên bởi một dòng suối chảy xuống từ đỉnh núi Sáng. Dòng chảy bao đời từ đất núi miên man đổ xuống đã tạo ra nhiều thác ghềnh. Cho đến lúc này, người dân trong vùng vẫn chưa xác định cụ thể có bao nhiêu ngọn thác trong hệ thống thác Bay. Lúc là bảy, có khi lại là bốn đến năm ngọn. Tuy nhiên, Anh Trung, người đã từng sống với núi Sáng và chưa bao giờ xa nó thì khẳng định, có tất cả chín bậc thác. Các thác nước nối nhau liên tiếp, càng lên cao, các bậc thác càng cao, đã tạo nên một cảnh trí ngoạn mục. Thác Bay có lẽ là tên gọi của ngọn thác cao nhất và được coi là tên chung của cả hệ thống thác này. Muốn đến thác Bay, bạn phải đi đến bờ hồ Bò Lạc - một hồ chứa nước được người quê tôi kiến tạo nên bằng trí tuệ, đôi bàn tay, đôi vai, đôi chân và lòng quyết tâm cao hơn núi từ những năm 80 của thế kỷ trước. Từ đây, để chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp huyền ảo của tất cả các ngọn thác Bay, ta nên bỏ đường mòn trên núi mà lội ngược theo dòng suối. Sẽ mạo hiểm và khó khăn hơn nhiều, nhưng bù lại, ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng núi, của thác nước từ một góc khác: hoang sơ, quyến rũ vô cùng. Bắt đầu vào dòng suối khoảng chục mét, ta sẽ gặp một hòn đá rất to, bằng phẳng như một cái bàn cờ nằm án ngữ gần như giữa dòng chảy chính. Mặt bằng của hòn đá khá lớn, có thể trải được ba - bốn chiếc chiếu, hay bày được vài bàn cờ. Người dân trong vùng cho rằng đây là hòn đá to nhất dòng suối. Có một chi tiết khá thú vị, đó là, vào khi mặt trời đúng ngọ, hoặc chếch bóng về tây, bên vách hòn đá, mặt ngoảnh về hạ lưu, hiện lên một chữ Vương (kiểu Hán tự) - có lẽ vì thế mà hòn đá được đặt tên là đá Vua? Liền kề đá Vua là ao Vua - là một hồ nước nhỏ, trong veo, nơi du khách có thể dầm mình thỏa thuê dưới làn nước trong mát của núi rừng hoang sơ sau khi leo núi trở về. Rời ao Vua, tiếp tục ngược dòng suối tìm lên thác. Bước đi nước chảy cuốn chân. Phía trước luôn có những vách đá dựng ngang chắn đường, thử thách lòng dũng cảm, có chỗ muốn đi phải bò qua, rồi có chỗ còn phải vừa trèo vừa đẩy vừa kéo nhau mới qua nổi.
Sau khi đã vượt qua một chặng đường ngược dòng suối ước vài km và qua hai thác nước nhỏ ta sẽ đến ngọn thác lớn. Hãy tưởng tượng, từ ngang trời, một dòng thác trắng xóa tuôn chảy ầm ã vang động cả một vùng. Với độ cao khoảng 20 m, dòng thác này giội thẳng từ trên cao xuống đến ngang chừng thì bị một vồng đá vạm vỡ bất chợt ưỡn ra kiêu hãnh đầy ngẫu hứng khiến làn nước cũng vồng lên theo. Nước bị tung lên một phần rồi mới giội xuống. Khi giội xuống, nước cuốn một luồng không khí cuộn theo đến tận chân thác. Tại đây, dòng nước và khối không khí chia đôi. Nước chảy xuôi dòng còn khí thì cuộn ngược tạo thành một luồng gió tạt vù vù ra chung quanh, giống như cơn lốc kèm mưa theo mưa bay. Có điều, những hạt mưa ở đây lại không rơi từ cao xuống như thông thường mà thốc ngược từ dưới lên khiến cây lá, đá hoa, cả người đứng quanh dễ bị ướt. Không khí mát rượi, trong lành đến khó tả. Luồng khí kèm hơi nước đặc biệt này, khiến cây lá, áo người, tóc người đứng cạnh cũng tung bay... Tên gọi thác Bay có lẽ vì thế mà được đặt cho thác?
Phía trên thác lớn nhất còn có vài thác nhỏ hơn. Các thác làm nên những bậc thiên tạo giống như bậc thềm tam cấp bằng nước. Bậc thứ ba của thác này có độ cao gần chục mét. Nước từ đây ào ạt giội xuống thẳng đứng như một bức mành mành trắng xóa. Cả một hệ thống mấy thác liên tiếp nhau đã tạo nên một cảnh quan thác Bay của núi Sáng hùng vĩ, diễm lệ vô cùng.
Anh Trung bảo, theo người cao tuổi kể, thác Bay là tên mới đặt. Còn xa xưa, cổ nhân ta gọi là thác Trống giục quân reo. Gọi thế là vì tương truyền rằng thuở trước, ông Ngụy Ðồ Chiêm từng chiêu tập quân sĩ chống giặc phương Bắc ở đây. Tiếng chiêng trống tập trận rền vang lẫn vào tiếng thác gào nước réo vang động một vùng. Ði qua thác Bay, từ đó ngược lên cao, ta sẽ đến bãi Bách Bung, nơi Ðế Thuấn ngày xưa cấy lúa, rồi đến hang Ðề Thám - nơi người Anh hùng nông dân Hoàng Hoa Thám chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
Núi Sáng, thác Bay quê tôi là thế. Ẩn dưới tán rừng trầm mặc vẫn còn không ít những câu chuyện đẹp như huyền thoại về một vùng đất và những con người quả cảm, cần cù, nhân hậu. Thác Bay, núi Sáng, món quà thiên nhiên ban tặng hiện còn nguyên vẻ sơ khai, vẫn ngủ vùi trong lời hát ru của dòng thác. Tiếng nước reo ngày đêm như lời mời gọi bàn tay con người khai phá nơi này thành điểm du lịch thiên nhiên hấp dẫn. Tôi thầm ước một ngày không xa, cả quần thể danh lam hồ Bò Lạc, thác Bay, núi Sáng, chùa cổ Kim Tôn, Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Ðức... sẽ là một điểm du lịch hấp dẫn khách thập phương.
Vĩnh Phúc quê tôi vốn là vùng địa linh, nhân kiệt, từ thuở Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa đến thời đổi mới hôm nay, trải dọc hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, đất và người Vĩnh Phúc đã làm nên bao kỳ tích anh hùng. Chỉ với thời gian hơn 10 năm sau ngày tái lập tỉnh, từ 1997 đến nay; từ một tỉnh nghèo, thuần nông, thu không đủ chi, Vĩnh Phúc đã nhanh chóng đứng vào hàng câu lạc bộ nghìn tỷ của cả nước, trở thành một trong những tỉnh hằng năm có đóng góp lớn về ngân sách cho trung ương. Vĩnh Phúc còn là quê hương của cây ngô bầu vụ đông trồng trên đất ướt, là tỉnh đầu tiên miễn thủy lợi phí cho nông dân, và hiện tại, đang chuẩn bị thực hiện chủ trương miễn 100% học phí mầm non cho các cháu hệ mầm non khu vực nông thôn.
ÐÃ xa rồi cái cảnh người dân quanh chân núi Sáng, thác Bay sơn tràng kiếm củi đổi cơm. Theo dự án giao đất giao rừng đến từng hộ dân, những vạt núi Sáng đã được phủ xanh trở lại, ngày ngày vang tiếng chim chuyền hót. Thế nên, nếu có dịp, bạn hãy về với Vĩnh Phúc, về với núi Sáng, thác Bay để vừa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, chứng kiến những đổi thay kỳ diệu của vùng đất trung du đang trong tốp dẫn đầu cả nước trong phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, vừa suy ngẫm về những chuyện đời xưa, nay trong tiếng cây rừng thầm thì, tiếng thác ầm ào tuôn chảy.
VĨNH NGUYÊN