Văn hóa dân gian ở Kon Tum

Nằm ở vùng cực bắc Tây Nguyên, là tỉnh có đường biên giới chạy qua, giáp với hai nước bạn: Lào và Campuchia; , với diện tích khoảng 9.661,7 km2, dân số 36 vạn người (mật độ dân số 30 người/km2), trong đó khoảng 54% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, gồm sáu dân tộc bản địa là Ba Na, Xê Ðăng, Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm, Giẻ Triêng và hơn mười dân tộc thiểu số từ phía bắc di cư vào.

Những địa tầng văn hóa

Kon Tum nói riêng, Tây Nguyên và dải đất miền trung nói chung, là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số chạy dài theo dãy Trường Sơn. Ðặc trưng của các dân tộc thiểu số nơi đây là dấu ấn của sự phân rã xã hội thị tộc với chế độ mẫu hệ vừa chuyển tiếp sang chế độ phụ hệ vẫn còn đậm nét. Xã hội cộng đồng tộc người với đặc điểm sống quần cư có tính cố kết cộng đồng cao, mọi sinh hoạt xã hội trước đây hầu như khép kín. Giao thông trắc trở là bức tường ngăn cách các cộng đồng tộc người nơi đây với thế giới bên ngoài.

Chính vì những yếu tố trên đã làm cho "tín ngưỡng tô tem đa thần giáo" vẫn ngự trị trong đời sống xã hội. Ðó là cách họ bày tỏ những suy nghĩ, tình cảm của họ trước thế giới tự nhiên, là "niềm tin vào cuộc sống đã được linh thiêng hóa" bởi các thần linh. Họ tin vào các điều mà mình không thể giải thích được, hoặc là sự gửi gắm ước vọng về một cuộc sống đầy đủ, no ấm... mọi việc là do các thần linh chế ngự (hoặc là trừng phạt, hoặc là ban thưởng). Ðó là yếu tố tinh thần mang niềm tin bất diệt để cộng đồng chống lại với thiên tai, địch họa, giữ gìn cái thiện, chế ngự cái ác.

Những điều trên cùng với các hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp của xã hội truyền thống đã tạo nên các hoạt động văn hóa lễ hội diễn ra theo chu kỳ sản xuất và chung quanh vòng đời, đã làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

Ở Kon Tum, cùng với những đặc điểm tự nhiên và xã hội với những nét chung và đặc trưng riêng như đã nêu, đã tạo nên những "địa tầng văn hóa" phong phú và đa dạng. Văn hóa Nhà Rông - một nét văn hóa mà hầu như chỉ phân bổ ở các dân tộc vùng bắc Tây Nguyên, cụ thể là Kon Tum, với mật độ dày đặc nhất, đã chứa trong lòng nó nhiều hoạt động văn hóa mang bản sắc riêng, là hoạt động văn hóa cồng chiêng (mà gần đây các nhà nghiên cứu còn gọi là "vùng văn hóa cồng chiêng"), hoạt động văn hóa diễn xướng sử thi... Từ trong các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum đã chứa các "vỉa quặng văn hóa lớn" không thể thống kê hết về giá trị của nó.

Hiện nay, toàn tỉnh Kon Tum có 1.853 bộ chiêng, trong đó có những bộ chiêng quý trên 100 năm tuổi. Song, điều đáng nói không phải là ở số lượng mà ở đa dạng về chủng loại cồng chiêng của các dân tộc; sự khác nhau về số lượng trong mỗi bộ chiêng, về trường độ âm sắc, về nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng của từng dân tộc đã tạo nên "vẻ đẹp tuyệt vời đầy quyến rũ".

Về sử thi, ước tính của các nhà nghiên cứu, qua khảo sát, thì Kon Tum có khoảng trên 100 bộ sử thi lớn nhỏ của các dân tộc bản địa, có những bộ sử thi rất lớn (như sử thi Ðăm Dông). Nghệ thuật diễn xướng sử thi của các nghệ nhân (hơ mon, hơ mon-hơ ri) chính là điều có sức hấp dẫn lớn, lôi cuốn không những ở những người tham gia sinh hoạt văn hóa Nhà Rông của cộng đồng mà còn như một "nam châm cực mạnh" hút các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian vào đó.

Vừa qua, thông qua  hoạt  động triển khai "Dự án sử thi Tây Nguyên" đã sưu tầm thêm nhiều sử thi mới.

Các truyền thuyết về các vấn đề tự nhiên, xã hội; các câu chuyện thần thoại, chuyện cổ tích... của các dân tộc thiểu số, là kho tàng văn hóa phi vật thể vô giá vẫn còn chứa trong các cuốn sách sống - các nghệ nhân, nếu chúng ta không kịp thời khai thác thì rồi đây có nguy cơ sẽ mất đi. Các hoạt động lễ hội với các nghi thức tiến hành, cùng với ý nghĩa văn hóa của nó, là điều đòi hỏi được sưu tầm, nghiên cứu và lưu giữ kịp thời.

Bên cạnh đó, với cộng đồng hơn mười dân tộc thiểu số từ phía bắc di cư vào Kon Tum cũng đã mang vào đây những giá trị văn hóa của dân tộc mình làm giàu thêm cho "bảng mầu văn hóa Kon Tum". Ðồng thời, trong quá trình sống xen cư, sự giao lưu văn hóa đã tích hợp nên những năng lượng nội sinh, chắc chắn cùng với quá trình lao động, sáng tạo của các nghệ nhân dân gian, qua thời gian sẽ có một nét văn hóa mới ra đời trên chính mảnh đất Kon Tum.

Sau ngày tái lập lại tỉnh Kon Tum, nhất là từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) "về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"; Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc khôi phục, giữ gìn các giá trị văn hóa của địa phương.

Cùng với chủ trương xây dựng Nhà Rông văn hóa ở các làng đồng bào dân tộc thiểu số, các hoạt động lễ hội văn hóa cũng được khôi phục, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể bước đầu lại có môi trường và không gian sinh hoạt văn hóa; tiếng cồng, tiếng chiêng lại vang, ngân lên ở các làng khi vào mùa lễ hội; một số nơi sinh hoạt kể khan lại bắt đầu trở lại dưới mái Nhà Rông những lúc đêm về.

Song, thật ra, so với tiềm năng văn hóa dân gian vô cùng phong phú của địa phương thì những gì chúng ta đã làm được chỉ là "khai thác những vỉa quặng nhỏ về văn hóa dân gian". Bởi, chúng ta thiếu một đội ngũ cán bộ khoa học làm công tác nghiên cứu văn hóa đông về số lượng và có chất lượng cao, chúng ta thiếu một tổ chức Chi hội những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian đủ mạnh.

Lâu nay, với niềm say mê của mình, những người làm công tác văn hóa dân gian cũng đã âm thầm, lặng lẽ làm công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian của địa phương nhưng kết quả còn hạn chế. Chi hội Văn nghệ dân gian của tỉnh Kon Tum mới thành lập trong bảy năm trở lại đây, chỉ là những hạt giống ươm mầm đầu tiên, thiếu về con người và chi phí nên cũng chưa làm được gì nhiều cho việc góp phần vào công tác giữ gìn bản sắc của địa phương.

Chạy đua với thời gian

Hiện nay, phần lớn cái kho tàng văn hóa dân gian ở Kon Tum nói riêng, Tây Nguyên nói chung phần lớn được "lưu giữ trong đầu của các nghệ nhân" - những cuốn sách sống của nhân dân các dân tộc thiểu số Tây Nguyên; số này hầu hết đã ngoài 70 tuổi; nếu chúng ta không có kế hoạch tiến hành khảo sát, sưu tầm, lưu giữ và động viên họ truyền dạy lại cho thế hệ trẻ nghệ thuật kể khan, nghệ thuật đánh cồng chiêng... thì cái kho tàng vô giá kia sẽ theo họ mang vào lòng đất.

Vì vậy, việc tiến hành công tác sưu tầm nghiên cứu và các biện pháp bảo lưu là việc làm cần thiết không chỉ riêng của những người làm công tác văn hóa nói chung, của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nói riêng, mà còn của các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương, của tất cả cư dân trong cộng đồng. Cần phải nhanh chóng chạy đua với thời gian.

Ngoài một số dự án bảo tồn văn hóa dân gian đang được tiến hành, một điều đáng mừng là Hội Văn nghệ dân gian đã kịp thời có một phương án với tên gọi "Tầm nhìn năm 2010" đề ra kế hoạch đẩy mạnh hơn nữa công tác khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian để đến năm 2010 chúng ta "phải tận thu" tất cả các di sản văn hóa dân gian vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, mà Kon Tum là một trong những địa chỉ cần thiết đó.

Bên cạnh đó cần mở các lớp để các già làng truyền dạy về nghệ thuật diễn xướng sử thi, nghệ thuật chế tác và sử dụng cồng chiêng... cho thế hệ trẻ.

Làm được như vậy là chúng ta đã không phụ công bao thế hệ nghệ nhân của đồng bào dân tộc thiểu số, trong quá trình lao động và sinh hoạt sống trên mảnh đất Kon Tum đã sáng tạo ra các tinh hoa văn hóa và trả nó về với nơi đã sinh ra nó. Ðồng thời, chúng ta đã góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra, mà gần đây trong kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ X về việc tiếp tục thực hiện NQT.Ư 5 (khóa VIII), Ðảng ta lại nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội.

 NHẬT HẰNG và DẠ LINH

Có thể bạn quan tâm